Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 13/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HUẾ - TỈNH THỪA THIÊN HUẾ

BẢN ÁN 13/2022/HNGĐ-ST NGÀY 30/03/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 30 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Huế (số 60 Nguyễn Huệ - Huế) xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 581/2021/TLST-HNGĐ ngày 15/12/2021; Về việc “ Ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 09/2022/QĐST- HNGĐ ngày 16 tháng 3 năm 2022, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Diệu L, sinh năm 1991; địa chỉ: Tổ dân phố 11, phường H, thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế, có mặt.

Bị đơn: Anh Phạm Hữu T, sinh năm 1990; địa chỉ: Số 1/134 đường H, phường T, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế, vắng mặt có đơn xin xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 13/8/2021 và trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn là chị Nguyễn Thị Diệu L đều trình bày:

Chị và anh Phạm Hữu T đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường T, thành phố Huế vào ngày 15/10/2015. Sau khi kết hôn vợ chồng sống không hạnh phúc thường xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống thường xuyên xảy ra cãi vã và bạo lực gia đình, anh T hay xúc phạm chị và bố mẹ chị, nên vợ chồng chị sống ly thân từ hơn một năm nay không còn quan tâm đến nhau nữa. Nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị khởi kiện xin ly hôn anh T để ổn định cuộc sống.

Về con chung: Chị L khai chị và anh T có 02 con chung là Phạm Tuệ L, sinh ngày 12/11/2015 và Phạm Hữu H, sinh ngày 28/04/2018. Chị L có nguyện vọng trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng cháu Phạm Tuệ L và giao cháu Phạm Hữu H cho anh T trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng. Hai bên không phải cấp dưỡng cho nhau.

Về tài sản chung và nợ chung: Chị L xác định chị và anh T không có tài sản chung, nợ chung và không yêu cầu Toà án giải quyết.

Tại bản tự khai ngày 06/01/2022, bị đơn anh Phạm Hữu T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân thì chị L khai như vậy là đúng. Về nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng không hợp tính nhau, bất đồng quan điểm sống. Hiện tại anh chị đã sống ly thân, không còn quan tâm gì đến nhau nữa. Nay anh thấy tình cảm vợ chồng không còn nên chị L xin ly hôn thì anh thuận tình ly hôn với chị L.

Về con chung: Anh T có nguyện vọng trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng cháu Phạm Hữu H và giao cháu Phạm Tuệ L cho chị L trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng. Hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con cho nhau.

Về tài sản chung và nợ chung: Anh T xác định anh và chị L không có tài sản chung, nợ chung và không yêu cầu Toà án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án, anh Phạm Hữu T không đến Toà án để tham gia các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải. Tại phiên toà, anh T vắng mặt có đơn xin xét xử vắng mặt.

Tại bản tự khai ngày 23/02/2022, chị Nguyễn Thị Diệu L (chị gái của chị Nguyễn Thị Diệu L) trình bày: Qúa trình vợ chồng chị L anh T chung sống với nhau phát sinh nhiều mâu thuẫn và ngày càng trầm trọng. Nguyên nhân mâu thuẫn do vấn đề kinh tế, thường xuyên cãi vã và bạo lựa gia đình, hiện nay chị L về nhà cha mẹ đẻ khoảng một năm để ở. Nay chị L xin ly hôn anh T thì chị đề nghị Toà án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, xin ly hôn anh Phạm Hữu T.

Về việc kiểm sát việc tuân theo pháp luật, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Huế có ý kiến:

[1] Việc tuân theo pháp luật tố tụng của những người tiến hành tố tụng:

Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng:

Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án:

- Quyền và nghĩa vụ của nguyên đơn: Từ khi thụ lý vụ án cho đến khi xét xử đã thực hiện đúng các quy định tại Điều 70, Điều 71, Điều 234 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Quyền và nghĩa vụ của bị đơn: Từ khi thụ lý vụ án cho đến khi xét xử đã không thực hiện đúng các quy định tại khoản 16 Điều 70, Điều 72 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử:

Căn cứ Điều 5, 51, 56, 57 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014; khoản 1 Điều 28, Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Chấp nhận đơn ly hôn của chị Nguyễn Thị Diệu L. Cho chị Linh được ly hôn với anh Phạm Hữu T.

Về con chung: Giao cháu Phạm Tuệ L, sinh ngày 12/11/2015 cho chị L trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng cho đến tuổi trưởng thành, giao cháu Phạm Hữu H, sinh ngày 28/04/2018 cho anh T trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng cho đến đến khi các cháu L và H tròn 18 tuổi.

Về cấp dưỡng nuôi con: Do chị L không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con nên Viện kiểm sát không xem xét.

Về tài sản chung, nợ chung: Chị L, anh T không yêu cầu Toà án giải quyết nên Viện kiểm sát không xem xét.

Buộc chị Nguyễn Thị Diệu L phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa hôm nay, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Chị Nguyễn Thị Diệu L khởi kiện ly hôn, tranh chấp nuôi con với anh Phạm Hữu T. Anh T có nơi cư trú: Số 1/134 đường H, phường T, thành phố Huế. Do đó, Tòa án nhân dân thành phố Huế thụ lý và giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28, Điểm a Khoản 1 Điều 35, Điểm a Khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa, bị đơn là anh Phạm Hữu T vắng mặt có đơn xin xét xử vắng mặt. Do đó, căn cứ vào khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh T.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Anh Phạm Hữu T và chị Nguyễn Thị Diệu L có quá trình chung sống với nhau, kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường T, thành phố Huế vào ngày 15/10/2015 (số 140, quyển số 01/2015). Như vậy, hôn nhân giữa anh T và chị L là hợp pháp.

[2.2] Xét yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị Diệu L, Hội đồng xét xử xét thấy:

Quá trình chị L và anh T chung sống với nhau hạnh phúc được một thời gian, sau đó phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, thường xuyên gây gổ, xúc phạm nhau, không quan tâm đến nhau. Trên thực tế vợ chồng đã sống ly thân từ đầu năm 2021, không quan tâm gì đến nhau nữa. Quá trình giải quyết vụ án, anh T đồng ý ly hôn với chị L, đồng thời có đơn xin xét xử vắng mặt thể hiện sự bỏ mặc, không muốn đoàn tụ. Tại phiên tòa, chị L vẫn cương quyết ly hôn với anh T. Nhận thấy, tình nghĩa vợ chồng giữa chị L và anh T không còn, hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Do đó, căn cứ vào Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị L. Cho chị L được ly hôn với anh T.

[2.3] Về con chung: Chị L và anh T có 02 con chung là Phạm Tuệ L, sinh ngày 12/11/2015 và Phạm Hữu H, sinh ngày 28/04/2018, hiện cháu L đang ở với chị L, cháu H đang ở với anh T.

Xét yêu cầu của chị L có nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng cháu L và giao cháu H cho anh T nuôi dưỡng là phù hợp với ý kiến, nguyện vọng của anh T, không làm xáo trộn, thay đổi việc các cháu hiện nay đang trực tiếp chung sống với anh T chị L. Do đó, cần giao cháu Phạm Tuệ L cho chị L trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng cho đến khi cháu đủ 18 tuổi, giao cháu Phạm Hữu H cho anh Trung trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng cho đến khi các cháu L và H đủ 18 tuổi là phù hợp.

[2.4] Về cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn: Chị L và anh T không có yêu cầu nên nên Hội đồng xét xử không xem xét. Chị L, anh T chưa thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

[2.5] Về tài sản chung và nợ chung: Chị L và anh T xác định vợ chồng không có tài sản chung và không có nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[2.6] Về án phí: Chị L phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Bởi các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, Điểm a Khoản 1 Điều 35, Điểm a Khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228, khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Áp dụng Điều 51, Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Chấp nhận đơn khởi kiện của nguyên đơn là Chị Nguyễn Thị Diệu L đối với anh Phạm Hữu T về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con”.

Chị Nguyễn Thị Diệu L được ly hôn anh Phạm Hữu T.

2. Về con chung: Giao cháu Phạm Tuệ L, sinh ngày 12/11/2015 cho chị L trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng đến khi cháu đủ 18 tuổi; Giao cháu Phạm Hữu H, sinh ngày 28/04/2018, cho anh T trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom mà không ai được cản trở.

Chị L, anh T chưa thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, được bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung Luật thi hành án dân sự năm 2014, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự và Điều 7a, 7b Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi hành án dân sự năm 2004; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Chị L và anh T xác định vợ chồng không có tài sản chung và không có nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

4. Về án phí: Chị L phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm gồm 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu số 0000805 ngày 15/12/2021của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Huế. Chị L đã nộp đủ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Án xử sơ thẩm công khai báo cho nguyên đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

188
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 13/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:13/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Huế - Thừa Thiên Huế
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;