Bản án về ly hôn số 70/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BA VÌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 70/2021/HNGĐ-ST NGÀY 09/03/2021 VỀ LY HÔN

Trong ngày 09 tháng 03năm 2021tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Ba Vìxét xử sơ thẩm công khaivụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số:564/2020/TLST-HNGĐ ngày 21 tháng12 năm 2020 về tranh chấp ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:09/2021/QĐXX-ST ngày 25 tháng 01năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 05/ QĐ- HPT ngày 18/02/2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1994; HKTT: Thôn Q, xã Y, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội.

(Chị Huyền có mặt tại phiên tòa) 

2. Bị đơn: Anh Dương Đức H1, sinh năm 1989; HKTT: Thôn Q, xã Y, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội.

( anh H1 vắng mặt tại phiên tòa) 

3. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

Bà Dương Thị T, sinh năm 1966 HKTT: Thôn Q, xã Y, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội ( bà T xin mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn ly h«n và bản tự khai ngày 22/12/2020 chị Nguyễn Thị H trình bày vàkhai nhưsau:chị Nguyễn Thị H và anh Dương Văn H1 tự nguyện tìm hiểu, có đăng ký kết hôn hợp pháp tại UBND xã Y, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội ngày 12/3/2012. Sau khi kết hôn hai vợ chồng về chung sống với nhau ngay tạithôn Q, xã Y. Cuộc sống chung của vợ chồng hạnh phúc được thời gian02 năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn vợ, chồng do vợ chồng thường xuyên bất đồng quan điểm, không có tiếng nói chung, thường xuyên xảy ra cãi vã, anh H1 bỏ bê, không quan tâm đến vợ con và gia đình, chị đã cố gắng hàn gắn, khuyên nhủ nhiều lần nhưng anh H1 không thay đổi. Tháng 11/2016 chị H đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ, hai vợ chồng cắt đứt mọi liên lạc và sống ly thân, cắt đứt mọi quan hệ vợ chồng từ đó cho đến nay.

Nay chị Hxác định tình cảm vợ chồng giữa chị và anh H1 không còn, chị H đề nghị Tòa án Ba Vì giải quyết cho chị và anh H1 được ly hôn để giải phóng cho cả hai.

* Về con chung: Theo chị H khai có 02 con chung, cháu Dương Đức H2, sinh ngày 20/8/2012 và Dương Thị Bích N, sinh ngày 14/01/2014. Cháu H2 đang ở với bà nội Dương Thị T từ khi hai vợ chồng chị sống ly thân, cháu N ở với chị H. Nay quan điểm của chị H khi ly hôn yêu cầu xin được nuôi dưỡng cả hai con chung đến khi tròn, đủ 18 tuổi, không yêu cầu anh H1 cấp dưỡng nuôi con chung.

* Về tài sản riêng, tài sản chung, công sức chung, công nợ chung: Theo chị H khai không có.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án nhân dân huyện Ba Vì đã tiến hành triệu tập và gửi thông báo thụ lý vụ án cho anh Dương Đức H1 biết, đồng thời xuống trực tiếp địa phương xã Y để xác minh, làm việc. Tuy nhiên mẹ anh Dương Đức H1 là bà Dương Thị Tcũng đã trực tiếp đến Tòa án Ba Vì và trình bày sự việc như sau: Gia đình bà đã nhận được Thông báo thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng của Tòa án nhân dân huyện Ba Vì gửi đến anh Dương Đức H1. Tuy nhiên anh H1 đang đi làm ăn xa, thỉnh thoảng mới về nhà, gia đình liên hệ với anh H1 hàng ngày qua điện thoại và mạng xã hội Zalo nên bà T đã thông báo cho anh H1 được biết thông báo thụ lý vụ án và toàn bộ các văn bản tố tụng của Tòa án nhân dân huyện Ba Vì. Quan điểm của anh H1 là không về Tòa án nhân dân huyện Ba Vì để giải quyết vụ án ly hôn giữa chị H và anh H1 và đề nghị Tòa án nhân dân huyện Ba Vì giải quyết vụ án ly hôn theo quy định của pháp luật. Về phía bà T đại diện gia đình anh H1 cũng thể hiện rõ quan điểm là đề nghị Tòa án nhân dân huyện Ba Vì giải quyết cho chị H và anh H1 được ly hôn vì thực tế giữa chị H và anh H1 đã có nhiều mâu thuẫn, hai bên gia đình đã cố gắng hòa giải, hàn gắn nhiều lần nhưng không thành do đó chị H đã bỏ về nhà bố, mẹ đẻ và sống ly, chị H và anh H1 đã sống ly thân và cắt đứt mọi tình cảm vợ, chồng từ tháng 11/2016 cho đến nay.

Về con chung: chị H và anh H1 thời gian chung sống với nhau có 02 con chung: CháuDương Đức H2, sinh ngày 20/8/2012 và Dương Thị Bích N, sinh ngày 14/01/2014. Thời gian chị H và anh H1 sống ly thân từ tháng 11/2016 cho đến nay thì chị H là người trực tiếp nuôi dưỡng cháu N, còn bà Dương Thị T là người trực tiếp nuôi dưỡng cháu H2, nay anh H1 thường xuyên đi làm ăn xa, không có điều kiện chăm sóc con nên bà Dương Thị T đề nghị Tòa án nhân dân huyện Ba Vì giao cho chị H được nuôi dưỡng 02 con chung của anh H1, chị H là cháu N và cháu H2 cho đến khi các cháu tròn, đủ 18 tuổi.

Về phần cấp dưỡng nuôi cháu H2: Trong thời gian bà T nuôi cháu Dương Đức H2 thì anh H1 và chị H không đưa tiền cấp dưỡng nuôi cháu H2 cho bà T tuy nhiên cháu H2 là cháu nội bà T do đó bà T không yêu cầu chị H và anh H1 phải thanh toán tiền chi phí bà T nuôi cháu H2 từ tháng 11/2016 đến nay.

Trong quá trình giải quyết vụ án mặc dù bà T mẹ đẻ anh H1 đã cam kết thông báo, và giao các văn bản tố tụng của Tòa án nhân dân huyện Ba Vì cho anh H1, xong Tòa án nhân dân huyện Ba Vì vẫn tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng theo qui định của pháp luật tại nơi anh H1 đăng ký hộ khẩu thường trú là: Nhà văn hóa thôn Q, tại trụ sở UBND xã Y và tại trụ sở TAND huyện Ba Vì đúng theo qui định của pháp luật.

* Về tài sản riêng, tài sản chung, công sức chung, công nợ chung: Theo bà Dương Thị T khai hai vợ chồng chị H, anh H1 không có.

Tại phiên tòa hôm nay: Chị Nguyễn Thị H giữ nguyên quan điểm về hôn nhân, con chung, cấp dưỡng nuôi con chung. Anh Dương Đức H1 vắng mặt.

§¹i diÖn VKSND huyÖn Ba Vì phải biểu quan điểm:Về việc thực hiện tố tụng của Tòa án nhân dân huyện Ba Vì và các đương sự: Quá trình tố tụng từ khi thụ lý vụ án đến khi xét xử sơ thẩm Thẩm phán, Thư ký và Hội Đồng xét xử đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử, xử: Chấp nhận đơn yêu cầu xin ly hôn củachị Nguyễn Thị H đối với anh Dương Đức H1 và cho chị H được ly hôn anh H1. Về con chung: Đề nghị Hội đồng xét xử: Giao cả hai con chung là: cháu Dương Đức H2, sinh ngày 20/8/2012 và Dương Thị Bích N, sinh ngày 14/01/2014 cho chị Nguyễn Thị H được nuôi dưỡng cho đến khi các tròn, đủ 18 tuổi, hoặc cho đến khi có sự thay đổi khác, về cấp dưỡng nuôi con chung: Tạm miễn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cho anh H1 đến khi chị H có yêu cầu hoặc cho đến khi có sự thay đổi khác.Tài sản riêng, tài sản chung, công sức chung, công nợ chung: Chưa giải quyết. Về án phí : Buộc chị H phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử thấy rằng:

[1].Về tố tụng: Chị Nguyễn Thị H khởi kiện yêu cầu ly hôn đối anh Dương Văn H1 có hộ khẩu thường trú tại: Thôn Q, xã Y, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nộilà tranh chấp về ‘’Hôn nhân và gia đình” theo quy định tại khoản 1, Điều 28, điểm a, khoản 1, Điều 35 và điểm a, khoản 1, Điều 39 BLTTDS 2015. Tòa án nhân dân huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội thụ lý và giải quyết là đúng thẩm quyền. Về sự vắng mặt của đương sự: Bị đơn anh Dương Đức H1, Tòa án nhân dân huyện Ba vì đã được triệu tập, tống đạt các văn bản tố tụng hợp lệ như: Giao thông báo thụ lý vụ án, các văn bản tố tụng giải quyết vụ án trực tiếp cho mẹ đẻ anh Dương Đức H1 là bà Dương Thị T, bà T đã cam kết sẽ thống báo trực tiếp và thông báo cho anh H1 biết các văn bản tố tụng của Tòa án nhân dân huyện Ba Vì thông qua phương tiện thông tin như: Điện thoại di động, mạng xã hội Zalo…Mặt khácTAND huyện Ba Vì đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án bằng việc thực hiện niêm yết các văn bản tố tụng theo qui định của pháp luật tại nơi anh H1 đăng ký hộ khẩu thường trú và cư trú như: Tại văn hóa thôn Q, tại trụ sở UBND xã Y và tại trụ sở TAND huyện Ba Vì để anh H1 biết nội dung chị H yêu cầu ly hôn đối với anh H1, để anh H1 thực hiện quyền và nghĩa vụ theo qui định của pháp luật tuy nhiên trong quá trình giải quyết, xét xử vụ án anh H1 vẫn vắng mặt không lý do. Do đó hội đồng xét xử căn cứ vào điều 227, điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự giải quyết, xét xử vắng mặt anh H1 để giải đáp ứng yêu cầu được giải quyết ly hôn của chị H.

[2]. Về nội dung:

2.1Về quan hệ hôn nhân:Hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị H và anh Dương Đức H1 là hôn nhân hợp pháp, ®¨ng ký kÕt h«n tại UBND xã Y, huyện Ba Vì ngày 12/03/2012. Sau khi kết hôn hai vợ chồng về chung sống với nhau ngay tại nhà thôn Q, xã Y. Cuộc sống chung của vợ chồng hạnh phúc được 02 năm thì xảy ra mâu thuẫn vợ, chồng, nguyên nhân mâu thuẫn vợ, chồng do bất đồng quan điểm,vợ, chồng thường xuyên xảy ra cãi nhau, anh H1 thường xuyên bỏ bê, không quan tâm đến gia đình và vợ con, chị H đã khuyên nhủ nhiều lần nhưng anh H1 không sửa chữa thay đổi. Mâu thuẫn vợ, chồng trầm trọng chị H đã bỏ về nhà bố, mẹ đẻ và vợ, chồng sống ly thân cắt đứt mọi tình cảm vợ, chồng từ tháng 11/2016 đến nay xong hai bên không có biện pháp cải thiện tình cảm vợ, chồng.Do vậy Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở để khẳng định mâu thuẫn vợ, chồng giữachị Nguyễn Thị H và anh Dương Đức H1 đã trầm trọng, kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt, đời sống chung vợ, chồng giữa chị H và anh H1 không thể tiếp tục duy trì. Do đó Hội đồng xét xử có đủ căn cứ chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị H, xử cho chị H được ly hôn anh H1 để giải phóng cho chị H.

2.2. Về con chung: chị H và anh H1 có 02 con chung,và Dương Thị Bích N, sinh ngày 14/01/2014 và cháu Dương Đức H2, sinh ngày 20/08/2012. Kể tử khi chị H và anh Ngọc sống ly thân cháu Dương Đức H2 được bà Dương Thị T là bà nội nuôi, cháu Dương Thị Bích N ở với chị H nay hội đồng xét xử xét thấy thực tế từ năm 2016 đến nay anh H1 thường xuyên vắng nhà bà Dương Thị T là người trực tiếp Dương Đức H2 do đó nay chị H là mẹ đẻ có nguyện vọng yêu cầu được nuôi cả hai con chung là cháu N và cháu H2, mặt khác nay cháu N và cháu H2 đều có nguyện vọng nếu bố, mẹ ly hôn, cháu H2 và cháu N xin ở với mẹ ( chị H). Do đó hội đồng xét xử thấy có đủ căn cứ chấp nhận yêu cầu được tiếp tục nuôi cả hai con chung của chị H, giao chị H được nuôi cả hai con chung là cháu: Dương Đức H2, sinh ngày 20/8/2012 và Dương Thị Bích N, sinh ngày 14/01/2014 đến khi tròn đủ 18 tuổi hoặc cho đến khi có sự thay đổi khác.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: chị H không yêu cầu anh H1 cấp dưỡng nuôi con chung do vậy toãn hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cho anh H1 đến khi chị H có yêu cầu hoặc cho đến khi có sự thay đổi khác.

Đối với thời gian anh H1 và chị H sống ly thân anh H1 không ở nhà thường xuyên đi làm ăn xa, bà Dương Thị T nuôi cháu Dương Đức H2 từ tháng 11/2016 cho đến nay, chị H và anh H1 không đóng góp tiền phí tổn và công sức để nuôi cháu H2. Xong nay bà Dương Thị T không có yêu cầu anh H1 và chị H phải thanh toán tiền nuôi dưỡng cháu H2 từ tháng 11/2016 cho đến nay nên Hội đồng xét xử không xem xét.

2.3.Vềtài sản riêng, tài sản chung, công sức chung, công nợ chung:Theo chị Nguyễn Thị H và bà Dương Thị T mẹ đẻ anh H1 đều khai không có. Tuy nhiên do anh Dương Đức H1 vắng mặt trong thời gian, quá trình Tòa án nhân dân huyện Ba Vì tiến hành tố tụng giải quyết vụ án và anh H1 vắng mặt tại phiên tòa hôm nay do đó Hội đồng xét xử chưa giải quyết tài sản riêng, tài sản chung, công nợ chung của chị H và anh H1. Nếu sau nay anh Dương Đức H1 mà có yêu cầu giải quyết tài sản riêng, tài sản chung, công nợ chung thì Tòa án nhân dân huyện Ba vì sẽ thụ lý và giải quyết sau khi ly hôn.

2.4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị H phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Khoản 1, Điều 51; Khoản 1, Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

Căn cứ: Khoản 1, Điều 35, điểm a, khoản 1, Điều 39,Khoản 4, Điều 147, Điều 227,Điều 228, Điều 235 của Bộ luật tố tụng dân sự.Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn,giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Xử:

1/ Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Nguyễn Thị H đối với anh Dương Đức H1.

2/Cho chị Nguyễn Thị H được ly hôn anh Dương Đức H1.

3/Con chung: Có 02 con chung, giao cho chị Nguyễn Thị H được tiếp tục nuôi dưỡng cả hai con chung, cháu Dương Thị Bích N, sinh ngày 14/01/2014 và cháu Dương Đức H2, sinh ngày 20/8/2012 đến khi các cháu tròn, đủ 18 tuổi hoặc đến khi có quyết định thay đổi khác.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cho anh H1 đến khi chị H có yêu cầu hoặc cho đến khi có quyết định thay đổi khác.

Anh H1 được quyền thăm nom con chung không ai được ngăn cản.

4/ Về tài sản riêng, tài sản chung, công sức chung, công nợ chung: Chưa giải quyết.

5/ Án phí: Chị Nguyễn Thị H phải nộp 300.000đ tiền án phí ly hôn sơ thẩm. chị H đã nộp 300.000đ tạm ứngán phí theo biên lai số: 00513 ngày 21 tháng 12 năm 2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Ba Vì. Nay khấu trừ toàn bộ vào khoản tiền án phí ly hôn sơ thẩm chị H phải nộp.

6/ Về quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị H được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Anh Dương Đức H1, bà Dương Thị T được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt hợp lệ bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

171
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn số 70/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:70/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ba Vì - Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 09/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;