Bản án về ly hôn số 36/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÓC SƠN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 36/2022/HNGĐ -ST NGÀY 30/06/2022 VỀ LY HÔN

Ngày 30 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 187/2022/TLST-HNGĐ ngày 07 tháng 4 năm 2022 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 35/2022/QĐXX-ST ngày 13 tháng 6 năm 2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1987;

Nơi cư trú: Thôn Thu T, xã Xuân T, huyện Sóc Sơn, TP. Hà Nội.

Bị đơn: Chị Phan Thị K, sinh năm 1988;

Nơi cư trú: Thôn Thu T, xã Xuân T, huyện Sóc Sơn, TP. Hà Nội. Có mặt anh T, vắng mặt chị K.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 25/3/2022 và các lời khai theo nguyên đơn là anh Nguyễn Văn T trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Anh và chị Phan Thị K tìm hiểu nhau khoảng 04 tháng thì kết hôn, đăng ký kết hôn tại UBND. xã Xuân T, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội ngày 19/01/2007. Sau khi kết hôn, chị K về làm dâu và sống chung cùng gia đình anh tại Thu T, Xuân T, Sóc Sơn, Hà Nội. Quá trình chung sống, vợ chồng anh sống hạnh phúc đến tháng 4/2021 thì phát sinh mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, không tin tưởng và Ca sẻ với nhau các vấn đề trong cuộc sống nên vợ chồng hay xảy ra cãi vã, đánh nhau. Anh chị đã được gia đình hòa giải nhiều lần nhưng không có kết quả. Anh chị đã sống ly thân từ tháng 5/2021 đến nay, vợ chồng không còn quan tâm, chăm sóc nhau. Đến tháng 3/2022, anh làm đơn xin ly hôn chị K nhưng vì thương con nên lại rút đơn về mong hàn gắn quan hệ vợ chồng. Tuy nhiên sau khi rút đơn, vợ chồng ngày càng mâu Thuẫn, không thể hàn gắn được nên anh quyết định gửi đơn ly hôn. Đề nghị Tòa án giải quyết cho chúng anh được ly hôn.

- Về con chung: Vợ chồng anh có 03 con chung là Nguyễn Thành V, sinh ngày 06/11/2007; Nguyễn Thị Quỳnh C, sinh ngày 18/12/2009 và Nguyễn Thị Quỳnh A, sinh ngày 14/11/2014. Ly hôn, anh có nguyện vọng được nuôi 03 con chung và không yêu cầu chị K cấp dưỡng nuôi con. Chị K xin nuôi 03 con, anh không đồng ý, anh chỉ đồng ý để chị K nôi cháu Quỳnh A vì cháu còn nhỏ, cần sự chăm sóc của mẹ và tự hai bên đảm nhiệm việc nuôi con. Hiện anh làm tự do, T nhập khoảng 7.000.000đ/tháng - Về tài sản chung, đất sản xuất nông nghiệp, nợ, công sức đóng góp: Anh xin tự giải quyết và không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Bị đơn là chị Phan Thị K vắng mặt tại phiên tòa nhưng tại Biên bản lấy lời khai ngày 06/5/2022, chị K trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Văn T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn tại UBND. xã Xuân T, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội ngày 19/01/2007. Sau khi kết hôn, vợ chồng sống bình thường, không có mâu Thuẫn gì, chị và gia đình chồng sống hòa Tận, vui vẻ. Nhưng từ đầu năm 2022, không hiểu vì lý do gì anh T đi cân hàng sắt vụn trên Bắc Giang và ở luôn tại đó, không về nhà, không quan tâm gì đến vợ con, mỗi lần chị lên thăm thì anh T đều tìm cách tránh né và đuổi chị về. Tháng 3/2022, anh T làm đơn xin ly hôn chị nhưng chị không đồng ý ly hôn nên anh T lại rút đơn. Sau khi anh T rút đơn, quan hệ vợ chồng vẫn không cải thiện được, thỉnh thoảng anh T về qua nhà rồi lại đi, chị và gia đình đã khuyên nhủ, hòa giải nhiều lần nhưng anh T không thay đổi, anh chị sống ly thân từ đó đến nay. Nay anh T xin ly hôn, chị không đồng ý ly hôn vì không muốn các con khổ. Đề nghị Tòa án hòa giải để vợ chồng chị về đoàn tụ với nhau.

- Về con chung: Vợ chồng chị có 03 con chung là Nguyễn Thành V, sinh ngày 06/11/2007; Nguyễn Thị Quỳnh C, sinh ngày 18/12/2009 và Nguyễn Thị Quỳnh A, sinh ngày 14/11/2014. Ly hôn, chị tôn trọng quyết định của các con, nếu 03 con đều muốn sống cùng chị thì chị đồng ý và anh T phải có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con, mức cấp dưỡng nuôi con chị trình bày sau.

- Về tài sản chung, tài sản riêng, đất nông nghiệp,công nợ, công sức đóng góp: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Sóc Sơn tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử và người tham gia tố tụng là anh Nguyễn Văn T và chị Phan Thị K kể từ khi nhận đơn, thụ lý vụ án, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và các đương sự đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về đường lối giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 28, 35, 39 và khoản 4 Điều 147, Điều 227, 271 và 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết 326 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án xử:

+ Về tình cảm: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh Nguyễn Văn T, cho anh Nguyễn Văn T được ly hôn chị Phan Thị K.

+ Về con chung: Giao con chung là Nguyễn Thành V, sinh ngày 06/11/2007; Nguyễn Thị Quỳnh C, sinh ngày 18/12/2009 cho anh T trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục. Giao con chung là Nguyễn Thị Quỳnh A, sinh ngày 14/11/2014 cho chị K trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục và tự các bên đảm nhiệm việc nuôi con.

+ Về tài sản chung, đất nông nghiệp, công sức đóng góp, nợ chung: Anh T, chị K không đề nghị nên không đặt ra giải quyết.

+ Về án phí: Anh T phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên toà và căn cứ kết quả tranh tụng,Hội đồng xét xử nhận định: [1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Về thẩm quyền: Bị đơn là chị Phan Thị K đăng ký hộ khẩu thường trú và cư trú tại thôn T T, xã Xuân T, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân huyện Sóc Sơn thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền.

[1.2] Về việc vắng mặt chị Phan Thị K: Toà án đã tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử cho K nhưng chị K có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ điểm khoản 1 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử xử vắng mặt chị K.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Anh Nguyễn Văn T và chị Phan Thị K kết hôn trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn tại UBND xã Xuân T, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội theo Giấy chứng nhận kết hôn số 16 ngày 19/01/2007. Hôn nhân giữa anh T và chị K là hợp pháp.

Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án thể hiện: Sau khi kết hôn, anh T, chị K sống hạnh phúc đến tháng 4/2021 thì phát sinh mâu Thuẫn. Nguyên nhân mâu là do vợ chồng thiếu sự quan tâm, chăm sóc, đồng cảm, Ca sẻ với nhau trong cuộc sống, anh T cho rằng chị K quản lý toàn bộ kinh tế, không tin tưởng, cư xử không đúng mực, xúc phạm anh và gia đình; chị K lại cho rằng vợ chồng không có mâu Thuẫn gì, do anh T đi làm xa không về nhà, không quan tâm và xa lánh chị. Gia đình đã hòa giải cho anh chị nhiều lần nhưng không có kết quả, anh chị đã ly thân từ tháng đầu năm 2022 đến nay, vợ chồng không còn quan tâm, chăm sóc nhau. Quá trình điều tra, chị K không đồng ý ly hôn nhưng chị không đến Tòa để tham gia hòa giải, bảo vệ cuộc hôn nhân của mình và cũng không đưa ra được biện pháp gì để hàn gắn quan hệ vợ chồng. Đồng thời xác minh tại địa phương nơi anh chị cư trú cho thấy mâu Thuẫn giữa anh T, chị K đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy yêu cầu xin ly hôn của anh T phù hợp với quy định tại Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình cần được chấp nhận.

[2.2] Về con chung: Anh T, chị K có 03 con chung là Nguyễn Thành V, sinh ngày 06/11/2007; Nguyễn Thị Quỳnh C, sinh ngày 18/12/2009 và Nguyễn Thị Quỳnh A, sinh ngày 14/11/2014. Anh chị đều có nguyện vọng được nuôi con.

Xét thấy, anh T, chị K đều có nơi ở và T nhập để đảm bảo cuộc sống của bản thân và nuôi con. Đồng thời nguyện vọng được nuôi con cũng là nguyện vọng chính đáng của các bậc làm cha mẹ. Quá trình điều tra, cháu Quỳnh A có nguyện vọng được sống cùng mẹ; cháu Văn, cháu C không trình bày nguyện vọng của mình muốn được sống cùng bố hay mẹ nên Hội đồng xét xử không thể xem xét nguyện vọng của các cháu theo quy định tại khoản 2 Điều 181 Luật hôn nhân và gia đình. Tuy nhiên căn cứ điều kiện thực tế của anh chị, Hội đồng xét xử thấy, cháu Quỳnh A còn nhỏ, lại là con gái, cần sự chăm sóc của người mẹ; cháu Văn, cháu C đang độ tuổi trưởng thành, cần sự quan tâm, giáo dục của người bố. Vì vậy nên giao cháu Văn, cháu C cho anh T và giao cháu Quỳnh A cho chị K trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục và tự các bên đảm nhiệm việc nuôi con là phù hợp, đảm bảo sự phát triển tốt nhất cả về thể chất lẫn tinh thần cho các cháu.

[2.3] Về tài sản chung, đất sản xuất nông nghiệp, công sức đóng góp, nợ chung: Ghi nhận sự tự nguyện của anh T, chị K không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[2.4] Về án phí: Căn cứ Điều 143, 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và Điều 25, 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội, anh T phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[2.5] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 271, 272 và 273 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng:

- Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình.

- Điều 143, 147, 227, 267, 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Điều 25, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức T, miễn, giảm, T, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của anh Nguyễn Văn T. Cho anh Nguyễn Văn T được ly hôn chị Phan Thị K.

2. Về con chung: Giao con chung là Nguyễn Thành V, sinh ngày 06/11/2007 và Nguyễn Thị Quỳnh C, sinh ngày 18/12/2009 cho anh Nguyễn Văn T trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục. Giao con chung là Nguyễn Thị Quỳnh A, sinh ngày 14/11/2014 cho chị Phan Thị K trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục. Tự các bên đảm nhiệm việc nuôi con chung đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có quyết định khác có hiệu lực pháp luật của Toà án thay thế.

Anh T, chị K có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung, đất sản xuất nông nghiệp, nợ và công sức đóng góp: Ghi nhận sự tự nguyện của anh T, chị K không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về án phí: Anh Nguyễn Văn T phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số AA/2020/0004544 ngày 03/12/2021 của C cục Thi hành án dân sự huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội.

5. Về quyền kháng cáo: Anh Nguyễn Văn T có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Chị Phan Thị K có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

116
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn số 36/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:36/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sóc Sơn - Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;