Bản án về ly hôn số 14/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN V, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 14/2022/HNGĐ-ST NGÀY 26/07/2022 VỀ LY HÔN

Ngày 26 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện V xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 52/2022/TLST - HNGĐ ngày 13-5-2022 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 10/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 13-7-2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Phạm Thị D, sinh năm 1993.

Nơi ĐKHKTT tại: Thôn T, xã C, huyện V, tỉnh Nam Định. Nơi ở hiện nay : Xóm B, xã T, huyện V, tỉnh Nam Định.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Trung Q, sinh năm 1987.

Nơi ĐKHKTT tại: Thôn T, xã C, huyện V, tỉnh Nam Định.

Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện V, tỉnh Nam Định. Tại phiên tòa: Chị D và anh Q đều vắng mặt có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Trong đơn khởi kiện ngày 12-5-2022, bản tự khai ngày 16-5-2022 và trong quá trình tố tụng tại Tòa án, nguyên đơn chị Phạm Thị D trình bày như sau:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Trung Q tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn vào ngày 19-7-2016 tại Ủy ban nhân dân xã C, huyện V, tỉnh Nam Định. Sau ngày kết hôn anh chị sống hòa thuận được hơn 03 năm đầu thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do tính tình vợ chồng không hòa hợp, anh Q mải chơi bời, mắc vào tệ nạn xã hội, không chịu làm ăn, không quan tâm gì đến gia đình. Khi chị khuyên nhủ thì anh Q chửi chị và đuổi chị ra khỏi nhà. Mâu thuẫn gia đình ngày càng trầm trọng nên đến ngày 21-10-2020 chị đã chuyển về nhà bố mẹ đẻ ở xã T, huyện V sinh sống và anh chị sống ly thân từ đó đến nay. Chị D xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn gia đình đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị xin được ly hôn với anh Q.

Trong thời gian Tòa án nhân dân huyện V đang giải quyết vụ án ly hôn của vợ chồng chị thì anh Q đã vi phạm pháp luật hình sự. Hiện nay anh Q đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện V, tỉnh Nam Định.

2. Về con chung: Trong quá trình chung sống chị D và anh Q có 01 con chung là cháu Nguyễn Anh T, sinh ngày 31-01-2017. Từ thời điểm vợ chồng anh chị sống ly thân thì cháu T được chị D nuôi dưỡng. Nay ly hôn, chị D nhận được tiếp tục nuôi con và không yêu cầu anh Q phải cấp dưỡng nuôi con cùng chị. Hiện nay chị D đang làm công nhân may tại Công ty cổ phần TCE Vina Denin ở thành phố Nam Định với mức thu nhập trung bình là 6.500.000đ/tháng nên đảm bảo đủ điều kiện nuôi con.

3. Về tài sản chung, tài sản riêng, công nợ chung và các vấn đề khác có liên quan: Chị và anh Q không có nên chị không yêu cầu Tòa án giải xem xét giải quyết.

* Tại bản tự khai ngày 09-7-2022 anh Nguyễn Trung Q trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Lời trình bày về điều kiện kết hôn, thời gian vợ chồng đăng ký kết hôn, quá trình vợ chồng chung sống, thời gian vợ chồng sống hòa thuận, thời gian vợ chồng sống ly thân như chị D đã khai. Theo anh Q khai nhận nguyên nhân mâu thuẫn gia đình là do tính tình vợ chồng không hòa hợp, vợ chồng hay cãi chửi nhau và anh đã đuổi chị D ra khỏi nhà. Anh Q cũng xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn gia đình đã trầm trọng, không thể duy trì cuộc hôn nhân này được nữa do đó chị D xin ly hôn anh cũng đồng ý.

Về con chung: Anh và chị D có con chung là cháu Nguyễn Anh T, sinh ngày 31-01-2017. Từ thời điểm anh chị sống ly thân thì cháu T được chị D nuôi dưỡng.

Nay ly hôn anh đồng ý để chị D tiếp tục nuôi con, chị D không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên anh không có ý kiến gì.

Về tài sản, công nợ và các nội D khác liên quan: Anh và chị D không có nên không đề nghị Tòa án giải quyết.

* Tại biên bản xác minh, thu thập chứng cứ ngày 24-6-2022, chính quyền địa phương cung cấp như sau: Anh Nguyễn Trung Q và chị Phạm Thị D tự nguyện đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã C, huyện V vào ngày 19-7-2016; anh Q vẫn đăng ký hộ khẩu thường trú tại Thôn T, xã C, huyện V, tỉnh Nam Định. Khoảng tháng 6-2022, anh Q vi phạm pháp luật hình sự nên đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện V, tỉnh Nam Định.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện V tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

- Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, của Hội đồng xét xử và việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng.

- Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, của Hội đồng xét xử và việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng.

- Về yêu cầu khởi kiện của đương sự: Căn cứ vào các Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án; Đề nghị Hội đồng xét xử:

+ Về quan hệ hôn nhân: Xử ly hôn giữa chị Phạm Thị D và anh Nguyễn Trung Q.

+ Về con chung: Giao cháu Nguyễn Anh T, sinh ngày 31-01-2017 cho chị Nguyễn Thị D trực tiếp nuôi dưỡng đến khi cháu T trưởng thành, có khả năng lao động tự lập được. Anh Q không phải cấp dưỡng nuôi các con cùng chị D.

+ Về tài sản chung, tài sản riêng, công nợ và những vấn đề khác có liên quan: Đương sự xác định không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét.

+ Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị Phạm Thị D phải nộp theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa. Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Bị đơn anh Nguyễn Trung Q có đăng ký hộ khẩu thường trú tại thôn T, xã C, huyện V, tỉnh Nam Định (Hiện nay anh Q đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện V, tỉnh Nam Định ) do đó Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Nam Định đã thụ lý, giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Nguyên đơn và bị đơn vắng mặt tại phiên tòa nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt do đó, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn theo quy định tại khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Phạm Thị D và anh Nguyễn Trung Q tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã C, huyện V, tỉnh Nam Định ngày 17-7-2016, như vậy hôn nhân của chị D và anh Q là hợp pháp, được pháp luật bảo vệ theo quy định tại Điều 8, Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình.

Sau kết hôn vợ chồng chung sống hòa thuận được hơn 03 năm đầu thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hòa hợp, hay cãi chửi nhau nên dẫn đến hạnh phúc gia đình mất dần; anh chị đã sống ly thân từ tháng 10-2020 đến nay. Như vậy trong thời gian vợ chồng chung sống chị D và anh Q không thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của vợ chồng, vợ chồng không thương yêu, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, không gìn giữ, bảo vệ hạnh phúc gia đình dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng, anh chị đã có thời gian sống ly thân từ tháng 10-2020 đến nay. Như vậy, việc này trái với quy định tại Điều 19, Điều 21 Luật hôn nhân và gia đình. Hội đồng xét xử xác định tình trạng hôn nhân của chị D và anh Q đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được do đó Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị D, xử cho chị D được ly hôn với anh Q là phù hợp với quy định tại Điều 51, Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Con chung của chị D và anh Q là cháu Nguyễn Anh T, sinh ngày 31-01-2017, từ thời điểm anh chị sống ly thân thì cháu T được chị D nuôi dưỡng. Hội đồng xét xử xét thấy, từ tháng 10-2020 đến nay cháu T được chị D nuôi dưỡng tốt; chị D có sức khỏe, có công việc và thu nhập ổn định; mặt khác anh Q cũng đồng ý để chị D nuôi dưỡng cháu T. Vì vậy, giao cháu T cho chị D tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp với điều kiện, nguyện vọng của đương sự và quy định pháp luật.

Về cấp dưỡng nuôi con: Đương sự không yêu cầu nên HĐXX không đặt ra xem xét.

[4] Về tài sản, công nợ và các nội D khác liên quan: Chị D và anh Q đều xác định vợ chồng không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí ly hôn sơ thẩm và án phí cấp dưỡng nuôi con: Chị Phạm Thị D phải nộp theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 51; Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án:

1. Xử ly hôn giữa chị Phạm Thị D và anh Nguyễn Trung Q.

2. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Anh T, sinh ngày 31-01-2017 cho chị Phạm Thị D trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cho đến khi cháu T trưởng thành, có khả năng lao động tự lập được.

Anh Nguyễn Trung Q không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị Phạm Thị D.

Anh Nguyễn Trung Q có quyền, nghĩa vụ thăm non con mà không ai được cản trở, nhưng anh Q không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con của chị Nguyễn Thị D.

3. Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị D phải nộp 300.000. Chị D đã nộp tạm ứng án phí 300.000đ theo biên lai thu tạm ứng án phí lệ phí Tòa án số 0001451 ngày 13-5-2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện V được đối trừ (Chị D đã nộp xong ).

4. Quyền kháng cáo: Chị Phạm Thị D và anh Nguyễn Trung Q vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì đương sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

71
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn số 14/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:14/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vụ Bản - Nam Định
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;