Bản án về ly hôn số 14/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ NINH HÒA, TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 14/2022/HNGĐ-ST NGÀY 28/02/2022 VỀ LY HÔN

Trong ngày 28 tháng 02 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Ninh Hòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 339/2021/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 5 năm 2021 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ ra xét xử số 05a/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 17 tháng 01 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 13a/2022/QĐST-HNGĐ ngày 15 tháng 02 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà H’An A – Sinh năm: 197 Nơi cư trú: Thôn B, xã E, huyện Krông Ana, tỉnh Đăk Lăk; có đơn xin xét xử vắng mặt.

- Bị đơn: Ông Nguyễn T – Sinh năm: 198 Nơi cư trú: Thôn C, xã T, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa; có đơn xin xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện ngày 11/5/2021, bản tự khai, biên bản về việc kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, biên bản hòa giải, nguyên đơn bà H’An A trình bày: Bà và ông Nguyễn T tự nguyện kết hôn năm 2013 và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã E, huyện Krông Ana, tỉnh Đăk Lăk. Quá trình chung sống vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, vợ chồng thường xuyên kình cãi, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng. Nay tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống chung không hạnh phúc nên bà yêu cầu ly hôn ông T.

- Về con chung: Vợ chồng có tất cả 02 người con chung tên là Nguyễn K, sinh ngày 29/6/200 và Nguyễn Q, sinh ngày 11/8/201 , bà H’An A yêu cầu trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung đến trưởng thành; bà không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về tài sản chung: Bà H’An A không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Bà H’An A xác nhận vợ chồng không nợ chung của ai.

- Về án phí: Bà H’An A tự nguyện chịu toàn bộ án phí theo quy định của pháp luật.

* Tại bản tự khai, biên bản về việc kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, biên bản hòa giải, bị đơn ông Nguyễn T trình bày: Ông và bà H’An A tự nguyện kết hôn năm 2013 và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã E, huyện Krông Ana, tỉnh Đăk Lăk. Quá trình chung sống vợ chồng có nhiều mâu thuẫn, thường xuyên xảy ra kình cãi, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng. Nay tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên ông đồng ý ly hôn theo yêu cầu của bà H’An A.

- Về con chung: Vợ chồng có tất cả 02 người con chung tên là Nguyễn K, sinh ngày 29/6/200 và Nguyễn Q, sinh ngày 11/8/201 , ông tự nguyện giao 02 con chung cho bà H’An A trực tiếp nuôi dưỡng đến trưởng thành.

- Về tài sản chung: Ông Nguyễn T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Ông Nguyễn T xác nhận vợ chồng không nợ chung của ai.

* Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến trình bày:

+ Về thủ tục tố tụng: Việc chấp hành pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký, nguyên đơn từ khi thụ lý đến trước khi Hội đồng xét xử vào phòng nghị án là đúng theo quy định.

Đối với nguyên đơn bà H’An A và bị đơn ông Nguyễn T đều có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt. Do vậy, Tòa án đưa vụ án ra xét xử vắng mặt bà H’An A và ông Nguyễn T là đúng theo quy định của pháp luật.

Về thu thập tài liệu, chứng cứ liên quan đến việc giải quyết vụ án: Tòa án đã thực hiện đúng, đầy đủ theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.

+ Về nội dung vụ án: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra công khai tại phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử:

- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà H’An A được ly hôn với ông Nguyễn T.

- Về con chung: Giao 02 con chung là cháu Nguyễn T, sinh ngày 29/6/200 và Nguyễn Q, sinh ngày 11/8/201 cho bà H’An A trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Bà H’An A không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về tài sản chung: Bà H’An A, ông Nguyễn T không yêu cầu nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

- Về nợ chung: Bà H’An A, ông Nguyễn T xác nhận vợ chồng không nợ chung của ai nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

- Về án phí: Bà H’An A phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn bà H’An A và ông Nguyễn T đều có đơn yêu cầu Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt nên thuộc trường hợp có lý do chính đáng. Do vậy, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 227 và Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quyết định tiến hành xét xử vắng mặt bà H’An A.

[2] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Bà H’An A yêu cầu được ly hôn với ông Nguyễn T và yêu cầu giải quyết nuôi con chung nên Hội đồng xét xử xác định đây là ly hôn, tranh chấp về nuôi con thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.

[3] Về nội dung vụ án: Về quan hệ hôn nhân: Hội đồng xét xử xét thấy bà H’An A và ông Nguyễn T tự nguyện đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã E, huyện Krông Ana, tỉnh Đăk Lăk theo Giấy chứng nhận kết hôn số 03, quyển số 01/2013, ngày 03/01/2013. Vì vậy, quan hệ hôn nhân giữa bà H’An A và ông Nguyễn T là hôn nhân hợp pháp.

Xét yêu cầu của đương sự, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, biên bản xác minh và được thẩm tra công khai tại phiên tòa nhận thấy:

Xét thấy trong quá trình chung sống giữa bà H’An A và ông T thường xuyên xảy ra mâu thuẫn do vợ chồng không ai còn quan tâm đến ai, tình cảm vợ chồng hiện nay không còn. Hội đồng xét xử xét thấy, xuất phát từ những bất đồng quan điểm trong cuộc sống chung dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng phát sinh, làm cho tình cảm vợ chồng ngày càng phai nhạt dần, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu xin ly hôn của bà H’An A là phù hợp. Trên cơ sở xem xét quan điểm trình bày của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Ninh Hòa là phù hợp với Hội đồng xét xử nên cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà H’An A theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Về con chung: Bà H’An Ayũn và ông Nguyễn T có 02 con chung là cháu Nguyễn K, sinh ngày 29/6/200 và Nguyễn Q, sinh ngày 11/8/201 ; bà H’An A yêu cầu trực tiếp nuôi dưỡng 02 cháu đến tuổi trưởng thành; bà H’An A không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con chung.

Hội đồng xét xử xét thấy: Việc giao con chung cho ai trực tiếp nuôi dưỡng căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con. Xét thấy: Trong vụ án này, từ khi mâu thuẫn vợ chồng phát sinh, bà H’An A là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung. Hiện nay hai con đang đi học, sống ổn định cùng với mẹ và nguyện vọng của các cháu là muốn sống cùng mẹ. Do đó, quan điểm trình bày của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Ninh Hòa là phù hợp với Hội đồng xét xử nên chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn giao cháu K và cháu Q cho bà H’An A trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến tuổi trưởng thành; bà H’An A không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung nên không xét; ông T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở theo quy định tại Điều 58, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Về tài sản chung: Bà H’An A, ông Nguyễn T không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

Về nợ chung: Bà H’An A, ông Nguyễn T xác nhận vợ chồng không nợ chung của ai nên không xem xét.

[4] Về án phí: Bà H’An A phải chịu án phí dân sự về giải quyết tranh chấp hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 228, khoản 1 Điều 232, Điều 264, Điều 266, Điều 269, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;

Căn cứ vào Điều 51, Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn bà H’An A.

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà H’An A được ly hôn với ông Nguyễn T.

2. Về con chung: Giao con chung là cháu Nguyễn K, sinh ngày 29/6/200 và Nguyễn Q, sinh ngày 11/8/201 cho bà H’An A trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến trưởng thành (đủ 18 tuổi), bà H’An A không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con chung.

Ông T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở.

Vì lợi ích của con khi cần thiết cha, mẹ có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con chung và cấp dưỡng nuôi con chung hoặc khi có căn cứ theo điểm b khoản 2 và khoản 5 Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình thì cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con chung.

3. Về án phí: Bà H’An A phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự về giải quyết tranh chấp hôn nhân gia đình sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền 300.000 đồng đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2021/0003951 ngày 25 tháng 5 năm 2021 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã Ninh Hòa. Bà H’An A đã nộp đủ án phí.

Quy định chung: Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Quyền kháng cáo: Nguyễn đơn, bị đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

158
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn số 14/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:14/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Ninh Hòa - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;