Bản án 84/2020/DS-ST ngày 20/08/2020 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ TÂN, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 84/2020/DS-ST NGÀY 20/08/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 20 tháng 8 năm 2020 tại Tòa án nhân dân huyện Phú Tân xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 221/2020/TLST-DS ngày 18 tháng 5 năm 2020 về việc “tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 193/2020/QĐXXST-DS ngày 13 tháng 7 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ngân hàng C.

Địa chỉ: Số X, Phố L, phường H, quận H, Thành phố H.

Đại diện theo pháp luật ông Dương Quyết T – Tổng giám đốc.

Đại diện theo ủy quyền ông Phạm Công K – Phó giám đốc Phòng giao dịch Ngân hàng C huyện P.

Theo Quyết định ủy quyền số 7300/QĐ-NHCS ngày 19 tháng 9 năm 2019 của Tổng giám đốc Ngân hàng C và giấy ủy quyền số 189/UQ-PGD ngày 23 tháng 9 năm 2019 của Giám đốc Phòng giao dịch Ngân hàng C huyện P.

- Bị đơn:

1. Bà Nguyễn Kiều D, sinh năm 1989 (vắng mặt).

2. Ông Phạm Văn C (vắng mặt).

Nơi cư trú: Ấp G, xã N, huyện P, tỉnh C.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện ngày 20 tháng 3 năm 2020 và tại phiên tòa đại diện theo ủy quyền của Ngân hàng C ông Phạm Công K trình bày: Vào ngày 15 tháng 8 năm 2013, Bà Nguyễn Kiều D có vay vốn tại Phòng giao dịch Ngân hàng C huyện P với số tiền 7.000.000 đồng, nguồn vốn cho vay hộ cận nghèo, lãi suất thỏa thuận 0,845%/tháng, lãi quá hạn 1,099%/tháng, thời hạn trả cuối cùng là ngày 16 tháng 9 năm 2018. Đến thời hạn trả nợ bà Nguyễn Kiều D và ông Phạm Văn C vẫn không trả nợ gốc và lãi theo thỏa thuận với Ngân hàng. Phòng giao dịch Ngân hàng C huyện P yêu cầu tòa án giải quyết buộc bà Nguyễn Kiều D và ông Phạm Văn C trả số tiền gốc 7.000.000 đồng, lãi tính đến ngày 20 tháng 8 năm 2020 với số tiền 1.927.000 đồng và lãi phát sinh theo hợp đồng cho đến khi bà D, ông C trả hết nợ.

- Bị đơn bà Nguyễn Kiều D và ông Phạm Văn C đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Thông báo Thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng nhưng bà D, ông C không tham gia hòa giải, xét xử và không cung cấp lời khai cho Tòa án.

- Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Tân đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu của Ngân hàng C. Buộc bà Nguyễn Kiều D, ông Phạm Văn C trả tiền gốc và lãi cho Ngân hàng C.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng: Ngân hàng C khởi kiện yêu cầu bà Nguyễn Kiều D và ông Phạm Văn C trả tiền vay và lãi suất. Do đó, đây là tranh chấp dân sự về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” nên theo quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau. Tòa án nhân dân huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau thụ lý giải quyết theo thủ tục sơ thẩm là đúng thủ tục tố tụng.

[2] Về sự vắng mặt của đương sự: Bà Nguyễn Kiều D và ông Phạm Văn C là bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt bà Nguyễn Kiều D và ông Phạm Văn C.

[3] Đối với yêu cầu bà Nguyễn Kiều D và ông Phạm Văn C trả tiền nợ gốc 7.000.000đ và lãi: Căn cứ giấy đề nghị vay vốn kiêm phương án sử dụng vốn vay, sổ vay vốn và sổ lưu tờ rời theo dõi cho vay - thu nợ - dư nợ của bà Nguyễn Kiều D thể hiện bà Nguyễn Kiều D có vay của Ngân hàng C số tiền vốn là 7.000.000 đồng, ông Phạm Văn C là người thừa kế. Tòa án đã tống đạt Thông báo thụ lý vụ án cho bà Nguyễn Kiều D và ông Phạm Văn C nhưng bà D, ông C không có ý kiến đối với yêu cầu của Ngân hàng. Do bà Nguyễn Kiều D và ông Phạm Văn C đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng đã ký kết. Tại khoản 1 Điều 474 của Bộ luật dân sự năm 2005 quy định về nghĩa vụ trả nợ của bên vay: “bên vay tài sản là tiền, thì trả đủ tiền khi đến hạn …”. Áp dụng điều luật đã viện dẫn thì bà D và ông C phải có nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng C. Do đó, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng C, buộc bà Nguyễn Kiều D và ông Phạm Văn C có nghĩa vụ liên đới trả cho Ngân hàng C số tiền gốc và lãi suất tính đến ngày 20 tháng 8 năm 2020 với số tiền tổng cộng là 8.927.000 đồng; trong đó tiền gốc 7.000.000 đồng, tiền lãi 1.927.000 đồng.

[4] Đối với yêu cầu bà Nguyễn Kiều D và ông Phạm Văn C trả lãi phát sinh sau ngày 20 tháng 8 năm 2020 đến khi trả hết nợ: Yêu cầu này của Ngân hàng là phù hợp với quy định của pháp luật và hợp đồng cho vay giữa các bên đã ký kết. Căn cứ vào án lệ số 08/2016/AL được Hội đồng thẩm phán TANDTC thông qua ngày 17 tháng 10 năm 2016 và được công bố theo quyết định số 698/QĐ-CA ngày 17 tháng 10 năm 2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao thì bà D và ông C có trách nhiệm trả lãi phát sinh theo hợp đồng giữa các bên đã ký kết kể từ ngày 21 tháng 8 năm 2020 cho đến khi trả hết nợ gốc.

[5] Từ phân tích nêu trên nên đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Tân là có cơ sở nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[6] Về án phí: Ngân hàng C không phải nộp án phí; Do bà D và ông C phải có nghĩa vụ trả tiền cho Ngân hàng C nên bà D và ông C phải liên đới chịu án phí dân sự có giá ngạch là 8.927.000 x 5% = 446.350 đồng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; Điều 227; Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015:

Áp dụng các Điều 471, Điều 474, Điều 476 và Điều 478 của Bộ luật dân sự năm 2005 và khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu của Ngân hành chính sách xã hội. Buộc bà Nguyễn Kiều D và ông Phạm Văn C có nghĩa vụ liên đới trả cho Ngân hàng C số tiền gốc và lãi suất tính đến ngày 20 tháng 8 năm 2020 với số tiền tổng cộng là 8.927.000 đồng (tám triệu chín trăm hai mươi bảy ngàn đồng); trong đó tiền gốc 7.000.000 đồng, tiền lãi 1.927.000 đồng.

Kể từ ngày 21 tháng 8 năm 2020 khách hàng vay còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi và tiền lãi quá hạn của số nợ gốc chưa thanh toán theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này. Trường hợp trong hợp đồng cho vay các bên có thỏa thuận về lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng vay theo quyết định của Tòa án cũng được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay.

2. Về án phí:

Buộc bà Nguyễn Kiều D và ông Phạm Văn C liên đới chịu án phí dân sự có giá ngạch với số tiền 446.350 đồng (bốn trăm bốn mươi sáu ngàn ba trăm năm mươi đồng).

Án xử sơ thẩm, Ngân hàng C có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án. Bà Nguyễn Kiều D và ông Phạm Văn C có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

215
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 84/2020/DS-ST ngày 20/08/2020 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:84/2020/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Tân - Cà Mau
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 20/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;