Bản án 79/2021/HS-ST ngày 31/05/2021 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂY HỒ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 79/2021/HS-ST NGÀY 31/05/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 31 tháng 5 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận T H, Thành phố H N xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 88/2021/HSST ngày 20 tháng 5 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 86/2021/QĐXXST-HS ngày 20 tháng 5 năm 2021 đối với:

Bị cáo Đặng Hồng N, sinh năm 1978 tại H N; Hộ khẩu thường trú (HKTT):73 Hẻm T Q, phường P T, quận H K, TP H N; Chỗ ở: Số 3/23 hẻm 43, ngách 32, ngõ 76 phố A D, phường Y P, quận T H, TP H N; Nghề nghiệp: Không; Trình độ giáo dục phổ thông: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Đặng Trung D và bà Nguyễn Thị D1; Chồng: Vũ Văn T (đã chết); có hai con, con lớn sinh năm 1999, con nhỏ sinh năm .08; gia đình có 04 chị em, bị cáo là con thứ 2; Danh chỉ bản số 509 do công an quận T H lập ngày 03/01/2021; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo đầu thú ngày 21/12/20, bị tạm giữ từ ngày 21/12/2020 đến ngày 30/12/20, hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt tại phiên tòa.

Bị hại: Chị Vũ Thị Thanh T2, sinh năm 1983; HKTT: 44 ngõ 128 Hẻm T Q, phường P T, quận H K, TP H N; Chỗ ở: Số 17, hẻm 43, ngách 32, ngõ 76 phố A D, phường Y P, quận T H, TP H N, xin vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 21/12/20, Đặng Hồng N đi bộ một mình đến cửa hàng cắt tóc gội đầu của chị Vũ Thị Thanh T để gội đầu, khi vào bên trong cửa hàng thấy không có người, trên bàn uống nước phía bên phải để một chiếc túi xách màu hàng. Quan sát thấy không có người trông giữ, N đã nảy sinh ý định trộm cắp chiếc túi nên T lại gần và lén lút lấy chiếc túi của chị T2 rồi đi ra khỏi cửa hàng. Sau đó N kiểm tra bên trong túi thấy có 01 điện thoại di động Iphone 7 plus màu đen, 01 đồng H đeo tay, số tiền 990.000đồng, 01 đăng ký xe máy, 01 căn cước công dân mang tên Vũ Thị Thanh T, chìa khoá, thỏi son. Khoảng 14 giờ ngày 21/12/20, N đến cửa hàng điện thoại Hải anh Mobile (số . Đặng Dung, phường Quán Thánh, quận Ba D, H N) bán cho chị Nguyễn Thị Thanh (sinh năm 1983, Trú tại: số 1/10/18 ngõ 432 Đội Cấn, Ba D, H N) chiếc điện thoại trên được 2.500.000đồng, bán chiếc đồng H đeo tay tại một cửa hàng trên phố hàng Phèn (N không nhớ địa chỉ cụ thể) được 100.000đồng và đã sử dụng số tiền này chi tiêu cá nhân, còn lại 1.027.000đồng. N để lại túi xách bên trong có thỏi son, chìa khoá ở cửa hàng của chị Thanh, còn số giấy tờ tuỳ thân N đem vứt tại khu vực phố hàng Bồ, Bát Đàn. Sau khi phát hiện bị mất tài sản ngày 21/12/20, chị T có đơn trình báo đến công an phường Y P.

Đến 16 giờ 20 phút ngày 21/12/20, biết không thể trốn tránh được Đặng Hồng N đã đến Cơ Q công an đầu thú khai nhận về hành vi phạm tội như trên.

Lời khai của N phù hợp với lời khai của bị hại và các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án. Cơ Q điều tra (CQĐT) đã thu giữ của N: 01 xe máy nhãn hiệu SYM Attila màu đen BKS 30F5-20; 01 điện thoại di động Samsung; số tiền 1.027.000đồng; 01 quần dài dạng quần ngủ màu cam có nhiều hoạ tiết màu đen.

Anh Trịnh Thanh Tùng (sinh năm 1977, trú tại: Số 16 hẻm 7/32/43 A D, Y P, T H) đã giao nộp cho CQĐT: 01 USB có video được trích xuất từ dữ liệu camera A ninh có hình ảnh vụ việc và không có yêu cầu gì về chiếc USB trên. CQĐT cho Đặng Hồng N Quan sát hình ảnh trong video trên, N thừa nhận người phụ nữ mặc áo khoác màu xanh đen, quần dài màu cam, đeo khẩu trang đi vào trong cửa hàng gội đầu và đi ra cầm chiếc túi xách màu hàng trong video chính là Đặng Hồng N. tiến hành thực nghiệm điều tra xác định hành vi của Đặng Hồng N như nội dung trên.

Chị Nguyễn Thị Thanh khai: Khi mua chiếc điện thoại Iphone 7 plus màu đen của N, chị không biết đó là tài sản do N trộm cắp mà có. Chị Thanh có thấy chiếc túi xách màu hàng do N bỏ lại cửa hàng, chị không rõ địa chỉ của N nên đã đem vứt đi. Chị Thanh tự nguyện giao nộp giao nộp cho CQĐT: 01 điện thoại Iphone 7 plus màu đen, số Imei trong máy: 355353086580960 để phục vụ điều tra, chị Thanh không yêu cầu, đề nghị đối với N.

Tại Kết luận định giá tài sản số 254/KL-HĐĐG ngày 24/12/2020 của Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự - Uỷ bA nhân dân quận T H kết luận: 01 chiếc điện thoại Iphone 7 plus màu đen mà Đặng Hồng N chiếm đoạt của chị Vũ Thị Thanh T có trị giá là 4.000.000đ (bốn triệu đồng), đối với chiếc túi xách và đồng H không có căn cứ định giá.

Đối với chiếc đồng H đeo tay, chiếc túi xách, chìa khoá, thỏi son, giấy tờ tuỳ thân mang tên Vũ Thị Thanh T, CQĐT đã tiến hành rà soát tuy tìm nhưng không phát hiện, thu hồi được. CQĐT đã trao trả cho chị T chiếc điện thoại Iphone 7 plus. Ngoài ra chị T2 xác nhận đã được Đặng Hồng N bồi thường các tài sản bị mất còn lại với số tiền 6.000.000đồng, chị T2 không có yêu cầu, đề nghị gì khác.

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu SYM Attila màu đen BKS 30F5-20 thu giữ của N, qua trưng cầu giám định: Xác định xe mang BKS 30F5-20 có số khung RLGH125GD8D068310, số máy VMM9BE-D 068310 là số nguyên T, xe không có trong dữ liệu xe tang vật. Qua tra cứu trên hệ thống phương tiện giao thông cơ giới đường bộ xác định đứng tên đăng ký chiếc xe là chị Kiều Thị Kim Oanh (sinh năm 1984, Trú tại 45/1 ngõ 115 Núi Trúc, phường Kim Mã, quận Ba D, H N). Xác minh tại công an phường Kim Mã xác định chị Oanh và gia đình đang sinh sống ở Đức. N khai: Chiếc xe này là của N mua ở chợ xe đã lâu và làm thất lạc giấy tờ mua bán, N chỉ còn giữ giấy tờ xe đứng tên Kiều Thị Kim Oanh.

Đối với chiếc điện thoại di động Samsung là tài sản của N, chiếc quần dài dạng quần ngủ màu cam là trang phục N mặc khi trộm cắp tài sản của chị T2.

Cáo trạng số 86/CT-VKS ngày 17/5/2021 VKSND quận T H đã truy tố Đặng Hồng N về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Đại diện VKSND quận T H luận tội: Sau khi phân tích nội dung vụ án, giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65, 47 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Tòa án: Xử phạt bị cáo từ 08 đến 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 16 đến 24 tháng kể từ ngày tuyên án, giao bị cáo về UBND phường Y P để giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách. Tịch thu sung quỹ nhà nước: Số tiền 1.027.000đồng; Lưu hồ sơ vụ án: 01 USB có hình ảnh vụ việc; Trả lại cho bị cáo: 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Attila màu đen BKS 30F5-20, số khung:068310, số máy: 068310; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung. Tịch thu tiêu hủy: 01 chiếc quần dài, họa tiết màu đen. Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

Bị cáo nói lời sau cùng trước khi HĐXX nghị án: Bị cáo biết việc bị cáo trộm cắp tài sản của chị T2 là sai, vi phạm pháp luật, đề nghị xem xét H cảnh của bị cáo khó khăn, Chồng bị cáo đã chết, bị cáo đang phải nuôi hai con nhỏ, bị cáo là lao động chính trong gia đình giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo có điều kiện chăm sóc các con.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án, đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của CQĐT công an quận T H, Điều tra viên, VKSND quận T H, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến gì về quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại CQĐT, phù hợp với các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 21/12/20, tại số 17 hẻm 76/32/43 A D, phường Y P, quận T H, H N, Đặng Hồng N đã có hành vi lén lút chiếm đoạt 01 chiếc túi bên trong có 01 điện thoại di động Iphone 7plus màu đen, 01 đồng H đeo tay, số tiền 990.000đ(chín trăm chín mươi nghìn đồng), 01 đăng ký xe máy, 01 căn cước công dân mang tên Vũ Thị Thanh T, chìa khoá, thỏi son của chị Vũ Thị Thanh T, tổng trị giá tài sản bị cáo đã chiếm đoạt là 4.990.000đ (bốn triệu chín trăm chín mươi nghìn đồng).

Như vậy có đủ căn cứ xác định bị cáo phạm tội “trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 BLHS như luận tội của đại diện VKSND quận T H là đúng.

[3] Về tính chất của hành vi, nhân thân của bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Hội đồng xét xử xét thấy hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an trong khu vực, gây mất lòng tin trong quần chúng nhân dân, bị cáo thực hiện hành vi dưới hình thức lỗi cố ý, mục đích thu lợi bất chính. Vì vậy việc đưa bị cáo ra xét xử và áp dụng hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo mới đủ tác dụng giáo dục các bị cáo và phòng ngừa chung.

Về tình tiết giảm nhẹ: Tại CQĐT và tại phiên tòa bị cáo Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, tài sản trộm cắp đã thu hồi được một phần trả lại cho bị hại, bị cáo đã tự nguyện bồi thường khắc phục hậu quả các tài sản trộm cắp không thu hồi được, quá trình điều tra bị cáo tự nguyện ra đầu thú nên được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS. Về tình tiết tăng nặng: Không có.

Xét thấy bị cáo không có tình tiết tăng nặng, quá trình điều tra Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, có nơi cư trú rõ ràng, nhất thời phạm tội. Quá trình sinh sống tại địa phương bị cáo chấp hành tốt các quy định của nhà nước và địa phương. Bị cáo có H cảnh khó khăn, Chồng bị cáo đã chết, bị cáo là lao động chính trong gia đình hiện đang nuôi hai con nhỏ. Căn cứ vào tính chất, mức độ phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. HĐXX thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù vì bị cáo có khả năng tự cải tạo nên cho bị cáo được cải tạo tại cộng đồng xã hội để bị cáo có cơ hội trở Thành công dân có ích cho gia đình và xã hội, thể hiện sự khoan hàng của nhà nước đối với những người phạm tội lần đầu, biết ăn năn hối cải.

Hiện bị cáo đang nuôi hai con nhỏ, không có thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền.

Đối với số tiền 1.027.000đồng thu giữ của bị cáo do phạm tội mà có nên tịch thu sung quỹ nhà nước. Đối với 01 xe máy nhãn hiệu SYM Attila màu đen BKS 30F5- 20; 01 điện thoại di động Samsung thu giữ của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên trả lại cho bị cáo. Tịch thu tiêu hủy 01 chiếc quần dài dạng quần ngủ màu cam.

Bị cáo phải nộp án phí và có quyền kháng cáo bản án theo luật định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

TuY bố bị cáo Đặng Hồng N phạm tội “ Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65, 47 Bộ luật hình sự năm 2015; Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao:

Xử phạt Đặng Hồng N 06 (sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời hạn thử thách là 12 (mười hai) tháng kể từ ngày tuyên án.

Giao bị cáo Đặng Hồng N về Ủy bA nhân dân phường Y P, quận T H, TP H N để giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Luật thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Áp dụng các Điều 106, 331, 333 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Xử lý vật chứng (hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự quận T H và Kho bạc nhà nước quận T H: Biên bản giao nhận vật chứng ngày 18/5/2021; Lệnh thanh toán tiền mặt ngày 26/4/2021 Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam- Chi nhánh T H):

Tịch thu sung quỹ nhà nước: Số tiền 1.027.000đ (một triệu không trăm hai mươi bảy nghìn đồng).

Trả lại cho bị cáo: 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Attila màu đen BKS 30F5-20, số khung:068310, số máy: 068310; 01điện thoại di động nhãn hiệu Samsung, imei:356825/07/104599/1;356850/07/104599/9;

Tịch thu tiêu hủy: 01 chiếc quần dài màu cam, họa tiết màu đen.

Án phí: Bị cáo phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị hại có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

174
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 79/2021/HS-ST ngày 31/05/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:79/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Tây Hồ - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;