Bản án 74/2021/HNGĐ-ST ngày 02/02/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ Q, TỈNH BÌNH ĐỊNH

BẢN ÁN 74/2021/HNGĐ-ST NGÀY 02/02/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 02 tháng 02 năm 2021, tại Trụ sở Toà án nhân dân thành phố Q, tỉnh Bình Định, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 876/2020/TLST-HNGĐ ngày 06 tháng 10 năm 2020 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 10/2021/QĐXX-ST ngày 11 tháng 01 năm 2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Cẩm H, sinh năm: 1990; Địa chỉ: số 19, ngã ba ĐT, xã L, huyện N, tỉnh BP.

- Bị đơn: Anh Bạch Xuân B, sinh năm: 1985; Địa chỉ: thôn L, xã N, Tp. Q, tỉnh BĐ.

Chị H, anh B vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 04 tháng 9 năm 2020 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Cẩm H trình bày:

Về hôn nhân: Chị và anh Bạch Xuân B tự nguyện tìm hiểu, đăng ký kết hôn ngày 22/6/2018 tại UBND xã N, Tp. Q. Sau khi kết hôn,vợ chồng sống hạnh phúc đến tháng 9/2018 thì bắt đầu mâu thuẫn. Nguyên nhân là do trước khi kết hôn, chị và anh B đều lập gia đình và có con riêng, anh chị đã thỏa thuận không phân biệt đối xử giữa các con nhưng anh B không tôn trọng ý kiến chị, không lo cho gia đình. Chị đã nhiều lần nhẫn nhịn để gia đình hạnh phúc, gia đình hai bên động viên, khuyên giải nhưng anh B không thay đổi. Khi chị có thai được 5 tháng thì về nhà mẹ đẻ sinh sống, anh B có qua lại thăm chị, đến lúc chị sinh cháu Q vợ chồng lại tiếp tục mâu thuẫn trong cách chăm sóc, nuôi dạy con. Sau khi sinh con được 6 tháng, chị sang Philippin làm việc một thời gian rồi về Việt Nam và vào tỉnh BP sinh sống cho đến nay. Vợ chồng sống ly thân đã 2 năm, tình cảm vợ chồng không còn nên chị yêu cầu được ly hôn anh B.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên B sinh ngày 02/7/2019, hiện nay cháu đang ở với anh B, sức khỏe bình thường. Khi chị sang Philippin làm việc, anh B là người trực tiếp chăm sóc cháu Q từ đó cho đến nay nên chị đồng ý giao cháu Bạch Quang Q cho anh B nuôi dưỡng và xin không cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa giải quyết.

Bị đơn anh Bạch Xuân B trình bày:

Về hôn nhân: Anh và chị H kết hôn ngày 22/6/2018 tại UBND xã N, Tp. Q. Sau khi kết hôn, vợ chồng sống hạnh phúc được vài tháng thì chị H mang bầu và vào Tp. HCM tìm việc làm đến lúc sinh con chị H về nhà mẹ đẻ sống. Anh đã đến nhà chị H chăm sóc hai mẹ con và vợ chồng bắt đầu mâu thuẫn. Nguyên nhân là do cả hai không cùng quan điểm trong cách chăm sóc, nuôi dạy con, chị H không tôn trọng anh. Sau đó, chị H sang Philippin làm việc khoảng 6 tháng thì về Việt Nam và đi vào tỉnh BP làm ăn cho đến nay. Trong thời gian vợ chồng sống ly thân, cả hai đều không liên lạc và quan tâm với nhau. Nay chị H yêu cầu ly hôn, anh đồng ý.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên Bạch Quang Q sinh ngày 02/7/2019, hiện nay cháu đang ở với anh, sức khỏe bình thường. Từ khi chị H bỏ con đi đến nay, anh là người trực tiếp chăm sóc cháu Q. Khi ly hôn anh đồng ý nuôi cháu Bạch Quang Q và không yêu cầu chị H cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa giải quyết.

+ Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Tp. Q phát biểu việc tuân thủ pháp luật về tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án:

- Thẩm phán đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm xét xử sơ thẩm. Tại phiên tòa sơ thẩm, Thẩm phán và Hội đồng xét xử tuân thủ đúng theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

- Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng dân sự: Nguyên đơn chưa thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, 71 Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, 72 Bộ luật tố tụng dân sự.

+ Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu của chị Nguyễn Thị Cẩm H về việc xin ly hôn anh Bạch Xuân B.

- Áp dụng khoản 3 Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 giao cháu Bạch Quang Q cho anh Bạch Xuân B trực tiếp nuôi dưỡng.

- Về án phí: Chị H chịu án phí theo quy định pháp luật

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên toà và căn cứ kết quả tranh tụng, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Chị Nguyễn Thị Cẩm H có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết về việc ly hôn với anh Bạch Xuân B ở địa chỉ: thôn L, xã N, Tp. Q, tỉnh Bình Định nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Q theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập hợp lệ chị Nguyễn Thị Cẩm H để tham gia phiên họp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải nhưng chị H không đến Tòa. Trước khi xét xử, Tòa án đã tiến hành các thủ tục tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng đối với chị H và anh B nhưng chị H, anh B vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ khoản 1 Điều 227; khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị Nguyễn Thị Cẩm H và anh Bạch Xuân B.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân:

Chị Nguyễn Thị Cẩm H và anh Bạch Xuân B đăng ký kết hôn vào ngày 22/6/2018 tại UBND xã N, Tp. Q trên cơ sở tự nguyện nên quan hệ hôn nhân giữa chị H và anh B là hôn nhân hợp pháp được pháp luật công nhận và bảo vệ. Sau khi kết hôn, vợ chồng sống hạnh phúc được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do trước khi kết hôn, chị H, anh B đã có gia đình và con riêng nên khi về chung sống cả hai bất đồng quan điểm trong cách chăm sóc, nuôi dạy gữa con chung và con riêng; anh B không tôn trọng chị từ đó vợ chồng thường hay cãi nhau. Chị H đã về nhà mẹ ruột một thời gian để cả hai cùng suy nghĩ tuy nhiên tình cảm vợ chồng vẫn không tiến triển tốt. Nay tình cảm vợ chồng thật sự không còn nên chị H yêu cầu được ly hôn anh B. Xét thấy: quan hệ hôn nhân giữa chị H và anh B thực tế đã không còn tồn tại, trong thời gian sống ly thân anh, chị không có sự quan tâm, chăm sóc, không có trách nhiệm với nhau, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, chị H yêu cầu ly hôn anh B là phù hợp với khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[2.2] Về con chung:

Chị Nguyễn Thị Cẩm H và anh Bạch Xuân B có 01 con chung tên Bạch Quang Q sinh ngày 02/7/2019, hiện nay cháu đang ở với anh B, sức khỏe bình thường. Khi ly hôn chị H đồng ý giao cháu Q cho anh B nuôi dưỡng, anh B cũng đồng ý nuôi dưỡng cháu Q. Xét thấy: Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi dưỡng, tuy nhiên chị H, anh B thỏa thuận cháu Bạch Quang Q sẽ do anh B nuôi dưỡng. Đây là sự tự nguyện thỏa thuận của các bên nên Hội đồng xét xử ghi nhận, giao cháu Bạch Quang Q cho anh Bạch Xuân B trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình.

[2.3] Về cấp dưỡng nuôi con: Anh Bạch Xuân B không yêu cầu nên Tòa không xem xét giải quyết.

[2.4] Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị Cẩm H và anh Bạch Xuân B không yêu cầu nên Tòa không xem xét giải quyết.

[2.5] Về án phí: Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, chị Nguyễn Thị Cẩm H phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

[2.6] Ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa về nội dung vụ án là có căn cứ và phù hợp với quy định pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 56, Điều 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Cẩm H được ly hôn anh Bạch Xuân B.

2. Về nuôi con chung:

2.1. Giao cháu Bạch Quang Q sinh ngày 02/7/2019 cho anh Bạch Xuân B trực tiếp nuôi dưỡng.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Nếu người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây nh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Vì lợi ích của con khi cần thiết hai bên đều có quyền xin thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con.

2.2. Về cấp dưỡng nuôi con: Anh Bạch Xuân B không yêu cầu nên Tòa không xem xét giải quyết.

3. Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị Cẩm H và anh Bạch Xuân B không yêu cầu nên Tòa không xem xét giải quyết.

4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Cẩm H phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm được khấu trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0008568 ngày 06 tháng 10 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Q.

5. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

205
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 74/2021/HNGĐ-ST ngày 02/02/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:74/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Qui Nhơn - Bình Định
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 02/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;