Bản án 74/2017/HNGĐ-PT ngày 26/07/2017 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 74/2017/HNGĐ-PT NGÀY 26/07/2017 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 26 tháng 7 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 74/2017/TLPT-DS ngày 28 tháng 6 năm 2017 về việc “Tranh chấp hôn nhân và gia đình”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 16/2017/DS-ST ngày 16/5/2017 của Tòa án nhân dân huyện T, Thành phố Hà Nội bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 189/2017/QĐ-PT ngày 03 tháng 7 năm 2017, giữa các đư  ng sự:

1. Nguyên đơn: Chị Cung Thị T. H, sinh năm 1979; Địa chỉ: Đường, quận H, Thành phố Hà Nội. Có mặt.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn H. Đ, sinh năm 1978; Địa chỉ: Đường T, huyện T, Thành phố Hà Nội. Có mặt.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đ  n: Luật sư Cao .V. B và Luật sư Nguyễn .M. H - Văn phòng luật sư T thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hà Nội. Có mặt luật sư H.

3. Người kháng cáo: Bị đ  n anh Nguyễn H. Đ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn chị Cung Thị T. H trình bày: Năm 2000, chị xây dựng gia đình với anh Đ có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Đ, quận H, Thành phố Hà Nội. au kết hôn, vợ chồng chung sống tại số 5/192 đường T, huyện T, Thành phố Hà Nội. Hạnh phúc đến năm 2013 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguy n nhân là do anh Đ ghen tuông vô cớ, chửi và xúc phạm chị, cấm đoán không cho chị đi làm, không cho chị về nhà bố mẹ đẻ, đập phá đồ đạc cá nhân của chị. không chịu đựng được, chị H phải bỏ về nhà bố mẹ đẻ.  Sau do anh Đ đến đón và vì các con nên chị quay về nhưng cuộc sống vợ chồng vẫn xảy ra mâu thuẫn. Từ tháng 10/2016, chị về nhà mẹ đẻ ở và vợ chồng không còn tình cảm n n chị xin ly hôn với anh Đ.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là Nguyễn Hữu T. Đ,sinh ngày 21/7/2002 và Nguyễn Ngọc B. C, sinh ngày 22/9/2009. Ly hôn, chị H nguyện vọng nuôi cháu C, còn anh Đ nuôi cháu Đ. Hai b n không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Chị H hiện làm nhân vi n xuất nhập khẩu của công ty N thu nhập 10 triệu đồng/tháng.

Về tài sản chung: Vợ chồng không có tài sản gì.

Bị đơn anh Nguyễn Hữu Đ trình bày: Về quá trình kết hôn và chung sống đúng như chị H đã trình bày, còn nguy n nhân mâu thuẫn vợ chồng là do chị H có quan hệ bất chính với người khác, không có trách nhiệm với chồng con và gia đình chồng, không tôn trọng chồng. Vợ chồng thường xuy n cãi nhau nhưng chưa khi nào anh đánh, đập phá đồ đạc hay cấm đoán chị việc gì. Anh vẫn mong muốn chị H sửa đổi và quan tâm đến chồng con; nhưng chị H không thay đổi làm cho mâu thuẫn vợ chồng th m căng thẳng. Nay chị H xin ly hôn anh xác định tình cảm không còn n n đồng ý.

Về con chung: Anh cũng nhất trí như chị H đã trình bày. Ly hôn, anh xin được nuôi cả hai cháu và không y u cầu chị H cấp dưỡng nuôi con. Hiện nay, anh làm lao động tự do thu nhập từ 8-9 triệu đồng/tháng đảm bảo cuộc sống cho anh và hai con.

Về tài sản chung: Vợ chồng không có tài sản gì.

Bản án sơ thẩm số: 16/2017/DS-ST ngày 16/5/2017 của Tòa án nhân dân huyện T, Thành phố Hà Nội đã quyết định:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Cung Thị T. H được ly hôn anh Nguyễn Hữu Đ.

Về con chung: Anh chị có 02 con chung là Nguyễn Hữu T. Đ, sinh ngày 21/7/2002 và Nguyễn Ngọc B. C, sinh ngày 22/9/2009. Giao cháu Đ cho anh Đ trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục; Giao cháu C cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục. Anh chị không phải cấp dưỡng nuôi con và có quyền thăm nom con chung không ai được cản trở.

Về tài sản chung: Anh chị không có, không y u cầu Tòa án xem xét, giải quyết. Ngoài ra bản án còn tuy n về án phí và quyền kháng cáo của các đư  ng sự.

Ngày 23 tháng 5 năm 2017, anh Nguyễn Hữu Đ kháng cáo về quyền nuôi con chung của bản án sơ thẩm số: 16/2017/DS-ST ngày 16/5/2017 của Tòa án nhân dân huyện T. Anh đề nghị được nuôi cả 2 con chung.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

- Nguyên đơn chị Cung Thị T. H giữ nguy n y u cầu khởi kiện.

- Bị đơn anh Nguyễn Hữu Đ giữ nguy n y u cầu kháng cáo và đề nghị cho anh được nuôi cả hai con chung, không y u cầu chị H góp nuôi con. Hai bên đương sự không thỏa thuận được về việc giải quyết vụ án.

- ông Nguyễn Minh H - Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của anh Đ phát biểu quan đi m và đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm: Chấp nhận đ  n kháng cáo của anh Đ; Giao cho anh Đ trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung và không y u cầu chị H đóng góp nuôi con.

- Đại diện Viện  kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Người tham gia tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự tại Tòa án cấp phúc thẩm.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của anh Đ; Giữ nguyên bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện T, Thành phố Hà Nội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phi n tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phi n tòa, Hội đồng xét xử thấy rằng:

Anh Nguyễn Hữu Đ và chị Cung Thị T. H xây dựng gia đình tr n c   sở tự nguyện, hợp pháp có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Đ, quận H, Thành phố Hà Nội năm 2000. Vợ chồng chung sống tại nhà đất của bố mẹ anh Đ tại số 5/192 đường T, xã T, huyện T, Thành phố Hà Nội. Quá trình chung sống anh chị có 02 con chung là Nguyễn Hữu T. Đ sinh năm 2002 và Nguyễn Ngọc B. C sinh năm 2009. Vợ chồng mâu thuẫn chỉ do anh Đ nghi ngờ chị H không chung thủy với anh, không có trách nhiệm với các con và với bố mẹ anh khi ông bà ốm đau; chị H thì trách anh Đ không tin tưởng chị, n n nghi ngờ rồi cấm không cho chị đi làm, không cho về nhà bố mẹ đẻ...Vợ chồng ly thân năm 2016 và không có trách nhiệm gì với nhau.

Anh chị thuận tình ly hôn và được Tòa án nhân dân huyện T, Thành phố Hà Nội công nhận. Anh chị không kháng cáo về mặt tình cảm n n Tòa án cấp phúc thẩm không xem xét.

Về con chung: Anh chị có 02 con chung. Cháu lớn 15 tuổi, cháu bé 8 tuổi. Hiện cả hai cháu đang do anh Đ nuôi dưỡng. Tòa án cấp s   thẩm đã giao anh chị m i người nuôi dưỡng một con và không ai phải đóng góp nuôi con cho b n kia. Anh Đ kháng cáo xin nuôi cả hai con, theo anh trình bày thì chị H không có trách nhiệm với các con n n không đủ tư cách đ  nuôi con. Về hoàn cảnh kinh tế và gia đình, anh Đ cho biết anh sống cùng bố mẹ; anh làm nghề tự do mỗi tháng thu nhập khoảng 10.000.000 đồng đủ điều kiện nuôi cả hai con. Chị H khai chỉ vì hai con ở với anh Đ n n việc chị đến chăm sóc các con rất khó khăn vì anh chị mâu thuẫn; chị có nghề nghiệp n n thu nhập ổn định 10.000.000đồng/tháng; về ch   ở: bố mẹ chị nhất trí đ chị ở cùng n n chị đủ điều kiện nuôi con. H  n nữa chị xin nuôi con gái còn vì cháu cần sự chăm sóc, hướng dẫn kiến th  c giới của người mẹ từ khi còn nhỏ đến lúc trưởng thành.

Xét nguyện vọng được nuôi các con của anh Đ và chị H là chính đáng; Các cháu tr n 7 tuổi, theo luật khi bố mẹ ly hôn các cháu được đề đạt nguyện vọng ở với bố hoặc mẹ. Cả hai con anh chị đều có đ  n nguyện vọng ở với bố. Tuy nhi n, quyết định giao con cho b n nào nuôi phải xuất phát từ quyền lợi của các cháu. Đối với cháu C sinh năm 2009 nay 8 tuổi còn nhỏ lại là con gái n n cần sự chăm sóc của mẹ. Tòa án cấp sơ thẩm giao cháu C cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng là đã cân nhắc toàn diện quyền lợi chính đáng của cháu. Vì vậy giữ nguyên án sơ thẩm và không chấp nhận kháng cáo của anh Đ là có cơ sở.

Về án phí dân sự phúc thẩm: Do giữ nguyên án sơ thẩm n n anh Đ phải chịu án phí dân sự phúc thẩm đ  sung công quỹ nhà nước.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 308 của BLTTD Giữ  nguyên bản án  sơ thẩm 16/2017/DS-ST ngày 16/5/2017 của Tòa án nhân dân huyện T, Thành phố Hà Nội. Áp dụng các Điều 56, 69, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình

- Xử:

1/ Về quan hệ hôn nhân: Chị Cung Thị T. H được ly hôn anh Nguyễn Hữu Đ.

2/ Về con chung:Anh chị có 02 con chung là Nguyễn Hữu T. Đ, sinh  ngày 21/7/2002 và Nguyễn Ngọc B. C, sinh ngày 22/9/2009. Giao cháu Đ cho anh Đ  trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục; Giao cháu C cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục. Anh chị không phải cấp dưỡng nuôi con và có quyền thăm nom con chung không ai được cản trở.

3/ Về tài sản chung: Anh chị không có, không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.

4/ Về án phí: Chị Cung Thị T. H phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng chị H đã nộp tạm ng án phí theo biên lai số 8154 ngày 01/3/2017 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện T (chị H đã nộp đủ án phí).

Anh Nguyễn Hữu Đ phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn phúc thẩm được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng anh Đ đã nộp tạm ứng án phí phúc thẩm theo biên lai số 8296 ngày 23/5/2017 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện T (anh Đ đã nộp đủ án phí).

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật k  từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

186
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 74/2017/HNGĐ-PT ngày 26/07/2017 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:74/2017/HNGĐ-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/07/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;