Bản án 73/2021/HSST ngày 10/03/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 73/2021/HSST NGÀY 10/03/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 10/3/2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Điện Biên xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 93/2021/HSST ngày 05/02/2021 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 79/2021/QĐXXST-HS ngày 24/02/2021 đối với bị cáo:

1. Họ và tên: Lê Thùy D. Tên gọi khác: Không. Giới tính: Nữ Sinh năm 1989. Tại tỉnh Điện Biên.

Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Tổ dân phố 7, phường N, thành phố Điện B, tỉnh Điện Biên.

Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt nam. Tôn giáo: Không.

Nghề nghiệp: Không: Trình độ văn hoá: 12/12.

Con ông: Lê Thanh H sinh năm 1958; Con bà: Hà Thị B sinh năm 1964. Gia đình bị cáo có 2 chị em, bị cáo là con thứ nhất. Bị cáo chưa có chồng, con. Tiền sự: Không; Tiền án, không. Nhân thân: Chưa bị xử phạt hành chính, chưa bị Tòa án xét xử. Bị cáo bị tạm giữ ngày 13/12/2020, bị cáo có mặt tại phiên toà.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 09 giờ ngày 13/12/2020, Lê Thùy D thuê xe ôm của một người đàn ông không biết tên không nhớ biển số xe đi từ khu vực thôn A, xã T, huyện Đ đến bản X, xã Th, huyện Đ mục đích để tìm mua ma túy về sử dụng. Đến nơi D xuống xe đi bộ một mình vào trong bản X và gặp mua được của một người đàn ông khoảng 30 tuổi không biết tên địa chỉ 01 gói methamphetamine được gói bên ngoài bằng túi nilon màu trắng với giá 1.000.000đ. Sau khi mua được methamphetamine D cất giấu gói ma túy vào túi áo bên phải đang mặc rồi đi bộ ra đường thuê xe taxi đi về khu vực xã T, để tìm nơi để sử dụng ma túy. Hồi 12 giờ 30 phút cùng ngày khi D đang đi bộ tại khu vực bản N, xã T, huyện Đ thì bị Tổ công tác Đồn Biên Phòng T phối hợp với Phòng phòng chống ma túy và tội phạm B tỉnh Điện Biên kiểm tra, phát hiện bắt quả tang và thu giữ tại túi áo bên phải D đang mặc 01 gói methamphetamine.

Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng ngày 14/12/2020 đã xác định:

Số các hạt tinh thể màu trắng dạng đá nghi ma túy tổng hợp thu giữ khi bắt quả tang Lê Thùy Dung có khối lượng 1,95gam trích 0,34 gam gửi giám định.

Tại bản kết luận giám định số 24/GĐ-PC09 ngày 21/12/2020 Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên đã kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng trích ra từ vật chứng thu giữ của Lê Thùy D gửi giám định là chất ma túy: Loại methamphetamine.

Tại bản cáo trạng số 36/CT-VKSĐB ngày 03/02/2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ đã truy tố bị cáo Lê Thùy D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điểm c Khoản 1 Điều 249/BLHS năm 2015.

Tại phiên tòa, đại diện VKSND huyện Đ vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội danh, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Điểm c Khoản 1 Điều 249;

Điểm s Khoản 1 Điều 51/BLHS năm 2015: Xử phạt bị cáo Lê Thùy D từ 27 tháng đến 30 tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 47/BLHS 2015; Điểm a Khoản 2 Điều 106/BLTTHS năm 2015 về xử lý vật chứng.

Căn cứ Khoản 2 Điều 136/ BLTTHS năm 2015 và Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 về án phí, lệ phí Tòa án bị cáo phải chịu án phí HSST.

Bị cáo cũng hoàn toàn nhất trí với quan điểm truy tố và luận tội của VKSND huyện Điện Biên không có ý kiến tranh luận, lời nói sau cùng của bị cáo: Ngoài xin giảm nhẹ hình phạt không có ý kiến gì khác.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà. Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, lời khai của bị cáo tại phiên tòa.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1].Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Lê Thùy D đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Mọi lời khai của bị cáo hoàn toàn phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang; biên bản mở niêm phong xác định khối lượng; Kết luận giám định, Kết luận điều tra, các bản cung có trong hồ sơ vụ án cũng như cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo.

[2]. Xét hành vi phạm tội của bị cáo thấy rằng: Lê Thùy D là đối tượng nghiện chất ma túy: Khoảng 09 giờ ngày 13/12/2020, bị cáo đã thuê xe ôm của một người đàn ông không biết tên đi từ khu vực thôn A, xã Th xuống khu vực bản X, xã T, huyện Đ mục đích để tìm mua ma túy về sử dụng. Tại đây D gặp và mua được của một người đàn ông khoảng 30 tuổi không biết tên và địa chỉ 01 túi nilon màu trắng với giá 1.000.000đ. Mua xong D cất gói ma túy vào túi áo bên phải đang mặc rồi thuê xe taxi về khu vực nghĩa trang xã Thanh Hưng tìm nơi để sử dụng, nhưng chưa kịp sử dụng thì bị bắt quả tang thu giữ tại túi áo bên phải D đang mặc 01 túi nilon bên trong là các hạt tinh thể màu trắng sau khi cân khối lượng 1,95 gam. Kết luận giám định là chất ma túy loại methamphetamine.

Hành vi phạm tội của bị cáo đã hoàn thành và được thực hiện bằng lỗi cố ý trực tiếp. Với hành vi tàng trữ 1,95 gam methamphetamine trên người mục đích để sử dụng của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249/Bộ luật Hình sự năm 2015, cú khung hỡnh phạt từ 01 năm đến 05 năm Cáo trạng của VKSND huyện Đ đã truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Bị cáo có đầy đủ năng lực để chịu trách nhiệm hình sự trước pháp luật về hành vi phạm tội của mình đã gây ra.

[3]. Xét tính chất mức độ phạm tội của bị cáo thì hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý là hành vi nguy hiểm cho xã hội, tội phạm mà bị cỏo thực hiện thuộc trường hợp nghiờm trọng làm ảnh hưởng đến trật tự trị an, an toàn xã hội. Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý. Bị cáo nhận thức được tác hại của ma tuý, nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý là vi phạm pháp luật. Song vỡ nhu cầu của bản thân bị cáo đã bất chấp và cố tình vi phạm. Nên cần phải xử lý bị cỏo nghiờm minh theo quy định của pháp luật.

 [4]. Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ cho thấy:

Bị cáo sinh ra và lớn lên tại thành phố Đ, bản thân học đến lớp 12/12 nghỉ học. Bị cáo sử dụng ma túy từ năm 2013. Bản thân chưa có tiền án, tiền sự, không có tình tiết tăng nặng. Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51/BLHS.

HĐXX xét thấy mặc dù bị cáo là đối tượng nghiện ma túy nên cần phải áp dụng hình phạt tù, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để bị cáo tiếp tục cai nghiện cải sửa lỗi lầm. Nhưng mức hình phạt mà VKS đề nghị là quá cao so với với tính chất mức độ hành vi của bị cáo. Cho nên HĐXX cân nhắc xem xét giảm một phần hình phạt cho bị cáo.

[5]. Ngoài hình phạt chính bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung bằng hình thức phạt tiền, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản theo quy định tại Khoản 5 Điều 249/BLHS. Xét kinh tế bị cáo khó khăn, bản thõn lại nghiện chất ma tỳy nên không có điều kiện để thi hành. Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo .

Xét đề nghị VKS là phù hợp HĐXX chấp nhận.

Còn người đàn ông bị cáo đã gặp tại bản X, xã Th theo bị cáo khai đã bán ma túy cho bị cáo, và người đàn ông đi xe ôm và đi xe taxi do không biết tên và địa chỉ nên cơ quan điều tra không xác minh làm rõ được. HĐXX không xem xét.

[6]. Về hành vi và các Quyết định của cơ quan người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, Điều tra viên, kiểm sát viên. Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục đảm bảo theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến khiếu nại gì do đó các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng là hợp pháp được chấp nhận.

[7]. Vật chứng của vụ án cần áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 47/BLHS 2015; Điểm a Khoản 2 Điều 106/BLTTHS 2015 về xử lý vật chứng. Tịch thu tiêu huỷ 1,95 gam methamphetamine đã trích 0,34 gam gửi giám định không hoàn lại.

[8]. Về án phí: Căn cứ Khoản 2 Điều 136/ BLTTHS năm 2015 và Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 về án phí lệ phí Tòa án. Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1 Điều 51/ BLHS năm 2015.

1. Tuyên bố: Bị cáo Lê Thùy D phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Xử phạt bị cáo Lê Thùy D 24 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ (13/12/2020).

3. Vật chứng: Căn cứ Điểm c Khoản 1 Điều 47/BLHS năm 2015; Điểm a Khoản 2 Điều 106/BLTTHS năm 2015.

- Tịch thu tiêu huỷ 1,95gam methamphetamine đã trích 0,34 gam gửi giám định không hoàn lại. (Vật chứng đã được Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ chuyển cho Chi cục thi hành án dân sự huyện Đ vào ngày 03/02/2021).

4. Về án phí: Căn cứ Khoản 2 Điều 136/ BLTTHS năm 2015 và Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 về án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo Lê Thùy D phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 10/3/2021).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

186
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 73/2021/HSST ngày 10/03/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:73/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;