Bản án 73/2021/HNGĐ-ST ngày 04/05/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỦY NGUYÊN - THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 73/2021/HNGĐ-ST NGÀY 04/05/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

 Ngày 04 tháng 05 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 39/2021/TLST-HNGĐ ngày 22 tháng 01 năm 2021 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 47/2021/QĐXX-ST ngày 07 tháng 4 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 59/2021/QĐST-HNGĐ ngày 23 tháng 4 năm 2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Đỗ Thị N; địa chỉ: Khu Q, thị trấn M, huyện T, thành phố Hải Phòng; vắng mặt (Có đơn xin xét xử vắng mặt).

2. Bị đơn: Anh Đàm Huy H; địa chỉ: Khu Q, thị trấn M, huyện T, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện xin ly hôn đề ngày 04/01/2021 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, chị Đỗ Thị N (nguyên đơn) trình bày:

Về hôn nhân: Chị Đỗ Thị N và anh Đàm Huy H kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức lễ cưới theo phong tục và có đăng ký kết hôn số 31 ngày 21 tháng 03 năm 2011 tại Ủy ban nhân dân thị trấn M, huyện T, thành phố Hải Phòng. Quá trình chung sống, vợ chồng chung sống hòa thuận hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm trong công việc, trong sinh hoạt và nuôi dạy con chung dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi mắng, xúc phạm lẫn nhau. Do mâu thuẫn, anh H đã đánh chị N, hiện vợ chồng chị đã sống ly thân. Nay chị N nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, khả năng đoàn tụ không có nên chị N yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Đàm Huy H.

Về con chung: Chị Đỗ Thị N khai: Chị và anh Đàm Huy H có 02 con là Đàm Thị Hương L, sinh ngày 03 tháng 01 năm 2012 và Đàm Trí D, sinh ngày 03 tháng 11 năm 2015. Trường hợp ly hôn, chị N có nguyện vọng được trực tiếp nuôi con Đàm Thị Hương L và yêu cầu Tòa án giao cho anh Đàm Huy H được trực tiếp nuôi con Đàm Trí D.

Về nghĩa cấp dưỡng nuôi con chung: Chị N khai chị và anh Đàm Huy H tự thỏa thuận giao nhận cho nhau nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Chị Đỗ Thị N khai: Chị và anh Đàm Huy H không có tài sản chung nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai ngày 05 tháng 02 năm 2021, anh Đàm Huy H (bị đơn) khai:

Về hôn nhân: Anh Đàm Huy H thừa nhận lời khai của chị Đỗ Thị N về thời gian, điều kiện, hình thức kết hôn, nguyên nhân và tình trạng mâu thuẫn vợ chồng là đúng. Nay chị N xin ly hôn, quan điểm của anh H nhận thấy tình cảm vợ chồng vẫn còn nên anh H không đồng ý ly hôn chị N.

Về con chung: Anh Đàm Huy H khai anh và chị Đỗ Thị N có 02 con chung là Đàm Thị Hương L, sinh ngày 03 tháng 01 năm 2012 và Đàm Trí D, sinh ngày 03 tháng 11 năm 2015, hiện anh H đang nuôi cả hai con. Trường hợp ly hôn, anh H có nguyện vọng được tiếp tục nuôi cả 02 con chung.

Về nghĩa cấp dưỡng nuôi con chung: Anh H khai: Anh và chị N tự thỏa thuận giao nhận cho nhau nên anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Anh Đàm Huy H khai: Quá trình chung sống anh và chị N không có tài sản chung nên anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng như sau: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã tiến hành giải quyết vụ án theo đúng trình tự thủ tục do pháp luật quy định. Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 71 và Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn chưa thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 72 và Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng. Căn cứ khoản 1 và khoản 3 Điều 228; Điều 238 Bộ luật Tố tụng Dân sự, đề nghị Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị N và anh H. Về việc giải quyết vụ án: Tài liệu điều tra thể hiện quan hệ hôn nhân giữa chị Đỗ Thị N và anh Đàm Huy H đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xử cho chị N và anh H được ly hôn. Về con chung: Chị Đỗ Thị N và anh Đàm Huy H có 02 con chung là Đàm Thị Hương L, sinh ngày 03 tháng 01 năm 2012 và Đàm Trí D, sinh ngày 03 tháng 11 năm 2015. Căn cứ tài liệu điều tra xác minh khả năng, điều kiện nuôi con của mỗi bên và nguyện vọng của con chung, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình giao cho chị Đỗ Thị N trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Đàm Thị Hương L, sinh ngày 03 tháng 01 năm 2012 cho đến khi con Đàm Thị Hương L đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Giao cho anh Đàm Huy H trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Đàm Trí D, sinh ngày 03 tháng 11 năm 2015 cho đến khi con Đàm Trí D đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung và tài sản chung: Các đương sự thống nhất khai không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Kiểm sát viên không đề cập giải quyết trong vụ án này. Về án phí: Chị Đỗ Thị N phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Nguyên đơn là chị Đỗ Thị N đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Bị đơn là anh Đàm Huy H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa lần thứ hai nhưng anh H vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng. Căn cứ khoản 1 và khoản 3 Điều 228; Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị Đỗ Thị N và anh Đàm Huy H.

[2] Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Đỗ Thị N và anh Đàm Huy H được xác lập vào năm 2011 là hợp pháp. Tài liệu điều tra xác minh thể hiện quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận hạnh phúc đến năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm trong sinh hoạt, trong lao động và nuôi dạy con dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi mắng, xúc phạm lẫn nhau. Do mâu thuẫn nên chị N và anh H hiện đã sống ly thân nhau. Chị N xin ly hôn, quan điểm của anh H không đồng ý ly hôn nhưng anh H đều vắng mặt không có lý do tại phiên tòa mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ, thể hiện anh H không mong muốn Tòa án giải quyết để vợ chồng đoàn tụ. Điều này thể hiện quan hệ hôn nhân giữa chị N và anh H đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, căn cứ khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn xử cho chị Đỗ Thị N và anh Đàm Huy H được ly hôn.

[3] Về con chung: Chị Đỗ Thị N và anh Đàm Huy H có 02 con là Đàm Thị Hương L, sinh ngày 03 tháng 01 năm 2012 và Đàm Trí D, sinh ngày 03 tháng 11 năm 2015. Khi ly hôn, anh H có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cả 02 con chung, chị N có nguyện vọng được nuôi con Đàm Thị Hương L và yêu cầu Tòa án giao cho anh H trực tiếp nuôi con Đàm Trí D. Tuy nhiên, việc giao con cho ai nuôi cần phải xem xét mọi mặt và đảm bảo quyền lợi của con chưa thành niên. Tài liệu điều tra xác minh thể hiện chị N, anh H đều có công việc ổn định. Mặt khác, con chung là Đàm Thị Hương L có nguyện vọng ở với mẹ. Vì vậy giao cho chị Đỗ Thị N trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Đàm Thị Hương L, sinh ngày 03 tháng 01 năm 2012 cho đến khi con Đàm Thị Hương L đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Giao cho anh Đàm Huy H trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Đàm Trí D, sinh ngày 03 tháng 11 năm 2015 cho đến khi con Đàm Trí D đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở là phù hợp với quy định tại các Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình và phù hợp với nguyện vọng của con chung.

[4] Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Đỗ Thị N và anh Đàm Huy H thống nhất khai tự thỏa thuận giao nhận cho nhau, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết trong vụ án này.

[5] Về tài sản chung: Chị Đỗ Thị N và anh Đàm Huy H thống nhất khai không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết trong vụ án này.

[6] Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 - 12 - 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án thì chị Đỗ Thị N phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Về quyền kháng cáo: Chị Đỗ Thị N và anh Đàm Huy H được quyền kháng cáo trong thời hạn do pháp luật quy định.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; khoản 1, khoản 3 Điều 228; Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 - 12 - 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án; Xử:

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Đỗ Thị N và anh Đàm Huy H.

2. Về con chung:

Giao cho chị Đỗ Thị N trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Đàm Thị Hương L, sinh ngày 03 tháng 01 năm 2012 cho đến khi con Đàm Thị Hương L đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Giao cho anh Đàm Huy H trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Đàm Trí D, sinh ngày 03 tháng 11 năm 2015 cho đến khi con Đàm Trí D đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Đỗ Thị N phải nộp 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng chị N đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0015713 ngày 22 tháng 01 năm 2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thuỷ Nguyên, chị Đỗ Thị N đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

Chị Đỗ Thị N, anh Đàm Huy H vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

201
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 73/2021/HNGĐ-ST ngày 04/05/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:73/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 04/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;