Bản án 70/2021/HNGĐ-ST ngày 05/05/2021 về tranh chấp ly hôn 

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ MỸ THO, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 70/2021/HNGĐ-ST NGÀY 05/05/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN 

Ngày 05 tháng 5 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 47/2021/TLST-HNGĐ ngày 15 tháng 01 năm 2021 về tranh chấp “Ly hôn”.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 43/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 30 tháng 3 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Đoàn Minh H, sinh năm: 1978; Địa chỉ: Ấp A, xã P, huyện C, tỉnh Tiền Giang.

- Bị đơn: Chị Trần Thị Lệ X, sinh năm: 1975;

Địa chỉ: Số W/C, tổ S, khu phố V, Phường Z, Tp M, tỉnh Tiền Giang.

(có mặt anh H, vắng mặt anh chị X)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện ngày 09/11/2021 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn anh Đoàn Minh H trình bày: Anh và chị Trần Thị Lệ X tự nguyện tiến tới hôn nhân vào năm 2014, có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, đến năm 2020 thì phát sinh nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân là do chị X là người ham chơi, thường xuyên tụ tập bạn bè nhậu nhẹt, không quan tâm gì đến chồng con. Anh đã nhiều lần khuyên nhưng chị X không thay đổi. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn chị X.

Về con chung: có 01 con chung là Đoàn Minh H, sinh 03/12/2014. Sau khi ly hôn anh H yêu cầu được trực tiếp nuôi con chung, không yêu cầu chị X cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Bị đơn chị Trần Thị Lệ X đã được Toà án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên toà nhưng vẫn không có ý kiến gì về yêu cầu khởi kiện của anh H.

* Tại phiên tòa, anh Đoàn Minh H vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Thư ký tòa án, Hội đồng xét xử và các đương sự từ khi thụ lý vụ án cho đến thời điểm Hội đồng xét xử chuẩn bị nghị án đều đúng theo trình tự do Bộ luật tố tụng quy định.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Đại diện Viện kiểm sát cho rằng yêu cầu khởi kiện của anh H là có căn cứ. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận cho anh H được ly hôn với chị X, về con chung giao con chung cho anh H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, không đặt ra vấn đề cấp dưỡng nuôi con; Về tài sản chung, nợ chung không yêu cầu Tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi thẩm tra xem xét các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, nghe lời trình bày và phát biểu tranh luận của đương sự, ý kiến đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Anh Đoàn Minh H và chị Trần Thị Lệ X kết hôn trên cơ sở tự nguyện. Được Ủy ban nhân dân Phường Z, TP M, tỉnh Tiền Giang cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn ngày 17/10/2014. Ngày 09/11/2020 anh H khởi kiện yêu cầu được ly hôn với chị X đây là tranh chấp ly hôn được quy định tại Điều 51 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Hình thức và nội dung đơn khởi kiện đúng quy định tại Điều 189 Bộ luật tố tụng dân sự. Chị Trần Thị Lệ X cư trú tại số W/C, tổ S, khu phố V, Phường Z, Tp M, tỉnh Tiền Giang, theo quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang.

Bị đơn chị Trần Thị Lệ X đã được Tòa án tống đạt quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa nhưng không có mặt để dự phiên tòa mà không có lý do. Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị Trần Thị Lệ X theo quy định tại khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Anh Đoàn Minh H và chị Trần Thị Lệ X được Ủy ban nhân dân Phường Z, thành phố M, tỉnh Tiền Giang cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn theo đúng quy định pháp luật, xác định hôn nhân của anh chị là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn anh chị sống chung với nhau hạnh phúc được thời gian đầu, đến năm 2020 thì phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân theo anh H trình bày là chị X không chăm lo cho gia đình chồng con mà thường xuyên tụ tập bạn bè ăn nhậu, anh nhiều lần khuyên can nhưng chị X không thay đổi. Do đó năm 2020 anh đã khởi kiện ly hôn với chị X, nhưng sau đó rút đơn khởi kiện để vợ chồng có cơ hội đoàn tụ. Tuy nhiên, từ thời gian đó đến nay chị X vẫn chứng nào tật nấy, không thay đổi bản thân, anh chị đã sống ly thân từ tháng 10/2020 đến nay.

Xét thấy, từ khi thụ lý vụ án cho đến phiên tòa xét xử hôm nay, Tòa án đã triệu tập chị X đến để tham dự phiên toà, nhưng chị X vắng mặt không có lý do, nên không đưa ra được một biện pháp cụ thể nào để hàn gắn lại mối quan hệ vợ chồng. Việc chị X không đến dự phiên toà là mặc nhiên từ bỏ cơ hội để vợ chồng đoàn tụ với nhau. Tại phiên tòa anh H trình bày không còn tình cảm, không muốn tiếp tục chung sống đời sống vợ chồng với chị X nên đã nộp đơn ly hôn và vẫn cương quyết ly hôn, cho thấy hôn nhân giữa anh chị đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh H theo quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Về con chung: Trong thời kỳ hôn nhân anh chị có 01 con chung là Đoàn Minh H, sinh 03/12/2014. Sau khi ly hôn anh H yêu cầu được trực tiếp nuôi con chung, không yêu cầu chị X cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy, cháu H hiện nay chưa đủ 18 tuổi, đang trực tiếp chung sống với anh H và cũng có nguyện vọng muốn được chung sống với cha, nên yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung khi ly hôn của anh H là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 nên được Hội đồng xét xử chấp nhận. Về mức cấp dưỡng nuôi con, do anh H không có yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đề nghị của Đại diện viện kiểm sát nhân dân thành phố Mỹ Tho là có cơ sở và phù hợp với quy định pháp luật nên được chấp nhận.

[3] Về án phí: Anh H phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 28, 35, 39, 92, 147, 189, 227, 228, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Căn cứ các Điều 8, 9, 53, 56, 58, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

Xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của anh Đoàn Minh H.

- Về quan hệ hôn nhân: Anh Đoàn Minh H được ly hôn với chị Trần Thị Lệ X;

- Về con chung: Giao cháu Đoàn Minh H, sinh ngày 03/12/2014 cho anh Đoàn Minh H trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng. Chị Trần Thị Lệ X không phải cấp dưỡng nuôi con do anh Hùng không có yêu cầu.

Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên. Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con.

2. Về án phí: Anh Đoàn Minh H phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân sơ thẩm. Anh H đã nộp 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0004737 ngày 15/01/2021 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Mỹ Tho, nên xem như đã nộp xong án phí.

3. Về quyền kháng cáo: Anh Đoàn Minh H có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, chị Trần Thị Lệ X có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

311
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 70/2021/HNGĐ-ST ngày 05/05/2021 về tranh chấp ly hôn 

Số hiệu:70/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Mỹ Tho - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 05/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;