Bản án 63/2021/DS-ST ngày 30/06/2021 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẮK MIL, TỈNH ĐẮK NÔNG

BẢN ÁN 63/2021/DS-ST NGÀY 30/06/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

 Ngày 30 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự sơ thẩm thụ lý số: 427/2020/TLST-DS, ngày 28 tháng 12 năm 2020 về việc tranh chấp hợp đồng tín dụng theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 45/2021/QĐXXST-DS ngày 31/5/2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 22/2021/QĐST-DS, ngày 14/6/2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ngân hàng thương mại cổ phần S Địa chỉ: Số A đường N, phường B, quận C, Thành phố H Người đại diện theo pháp luật: Bà Nguyễn Đức Thạch D – Tổng giám đốc Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Thanh H – Giám đốc chi nhánh, Ngân hàng TMCP S.

Người đại diện theo ủy quyền lại: Ông Nguyễn Đức T (Có mặt) – Phó Phòng giao dịch C - Ngân hàng TMCP S, chi nhánh Đ

- Bị đơn: Bà Nguyễn Thị K (Vắng mặt) Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn A, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

1. Theo đơn khởi kiện nhận ngày 14 tháng 12 năm 2020 và lời khai của người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trong quá trình giải quyết, cũng như tại phiên tòa sơ thẩm trình bày:

Bà Nguyễn Thị K có quan hệ tín dụng với Ngân hàng thương mại cổ phần S – Chi nhánh Đ – PGD C như sau:

Theo hợp đồng tín dụng số LD1917800685 ngày 27/6/2019 và giấy nhận nợ số 01/LD1917800685 ngày 28/6/2019 thể hiện: Số tiền vay 450.000.000 đồng, thời hạn vay 60 tháng, thời điểm trả hết nợ ngày 28/6/2024; lãi suất 03 tháng đầu tiên 11,2%, tại thời điểm bắt đầu tháng thứ 4 kể từ ngày nhận nợ, lãi suất của toàn bộ dư nợ vay sẽ được Ngân hàng điều chỉnh bằng lãi suất huy động tiết kiệm 13 tháng, lãi cuối kỳ VNĐ (LV13) + biên độ 4.2%/năm và được điều chỉnh định kỳ 3 tháng/lần; kỳ trả gốc 05 kỳ, mỗi kỳ 12 tháng kể từ ngày nhận tiền vay; kỳ trả lãi 10 kỳ, mỗi kỳ 06 tháng kể từ ngày nhận tiền vay.

Để bảo đảm cho các khoản vay, bà K đã thế chấp cho Ngân hàng tài sản: quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CR 277992 do Sở tài nguyên và môi trường tỉnh Đ cấp ngày 27/6/2019 cho bà K, đối với thửa đất số 82, tờ bản đồ số 69, địa chỉ tại xã Đ, huyện Đ, diện tích 19.522,9m2, mục đích sử dụng: đất trồng cây lâu năm. Việc thế chấp được thực hiện theo Hợp đồng thế chấp tài sản số 0634/19/TCCJ ngày 27/6/2019 được công chứng tại Văn phòng công chứng Nguyễn Văn N và đăng ký thế chấp tại Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện Đ ngày 28/6/2019. Trong quá trình vay vốn, bà K đã thanh toán cho ngân hàng 27.000.000 đồng tiền gốc và 18.160 đồng tiền lãi. Theo hợp đồng tín dụng, đến ngày 12/4/2020, bà K phải thanh toán số tiền là 75.052.314 đồng, trong đó tiền gốc là 23.000.000 đồng, tiền lãi là 52.052.314 đồng nhưng bà K không thanh toán nên Ngân hàng đã có thông báo thu hồi nợ trước hạn, đồng thời chuyển toàn bộ số nợ vay sang nợ quá hạn.

Ngoài ra, ngày 05/08/2019, bà K có quan hệ tín dụng với Ngân hàng TMCP S – CN Đ - PGD C chi tiết như sau: Theo Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng số 202/2019/HĐ ngày 05/8/2019, Hạn mức cấp tín dụng là 30.000.000 đồng; lãi suất 19,2%. Từ khi được cấp thẻ tín dụng đến nay bà K đã thực hiện các giao dịch với tổng số tiền là 30.900.000 đồng và đã thanh toán cho Ngân hàng tổng số tiền là 14.720.000 đồng, trong đó: tiền vốn gốc là 6.144.664 đồng, tiền lãi là 7.424.604 đồng và tiền phí là 1.150.732 đồng. Đến hạn thanh toán là ngày 22/8/2020 nhưng bà K không thực hiện nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng đã ký.

Tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn đã đề nghị Hội đồng xét xử buộc bà Nguyễn Thị K trả tổng số tiền là: 562.884.880 đồng, trong đó: Số nợ gốc là 447.755.336 đồng, tiền lãi theo hợp đồng là 101.630.242 đồng, tiền lãi quá hạn là 7.008.128 đồng, phạt chậm trả lãi là 6.491.174 đồng, cụ thể:

- Theo hợp đồng tín dụng số LD1917800685 ngày 27/6/2019 và giấy nhận nợ số 01/LD1917800685 ngày 28/6/2019 là 532.547.264 đồng, trong đó: Nợ gốc là 423.000.000 đồng, nợ lãi trong hạn là 101.630.242 đồng, nợ lãi quá hạn là 1.425.848 đồng và phạt chậm trả lãi là 6.491.174 đồng.

- Theo Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng số 202/2019/HĐ ngày 05/8/2019 là 30.337.616 đồng, trong đó: Nợ gốc là 24.755.336 đồng và nợ lãi quá hạn là 5.582.280 đồng.

Trường hợp bà K không thực hiện trả nợ thì yêu cầu xử lý toàn bộ tài sản thế chấp để thực hiện nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng đã ký kết và các cam kết, thỏa thuận khác. Bà K phải chịu trách nhiệm thanh toán toàn bộ án phí và chi phí phát sinh liên quan theo quy định của pháp luật.

2. Đối với bị đơn (bà Nguyễn Thị K) trình bày: Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho bà K nhưng bà K đều vắng mặt tại các buổi làm việc, không đến Tòa án, không cung cấp tài liệu, chứng cứ chứng minh hoặc có yêu cầu phản tố với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn cho nên không có lời trình bày tại Tòa án.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Mil tham gia phiên toà phát biểu ý kiến:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử và nguyên đơn đều chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt, đề nghị Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với bị đơn.

Về nội dung vụ án: Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, khoản 1 Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 157, Điều 180, Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 299, Điều 317, Điều 318, Điều 319, Điều 320, Điều 322, Điều 357, Điều 463, Điều 466, Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 3, Điều 91 và Điều 95 của Luật các tổ chức tín dụng; khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc đã đề nghị Hội đồng xét xử:

- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Buộc bị đơn phải trả cho nguyên đơn tổng số tiền tính đến ngày xét xử sơ thẩm là 562.884.880 đồng, trong đó: Số nợ gốc là 447.755.336 đồng, tiền lãi theo hợp đồng là 101.630.242 đồng, tiền lãi quá hạn là 7.008.128 đồng, phạt chậm trả lãi là 6.491.174 đồng.

- Về lệ phí thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng: Nguyên đơn phải chịu lệ phí thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng theo quy định của pháp luật.

- Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ: Buộc bị đơn phải hoàn trả số chi phí xem xét thẩm định tại chỗ cho nguyên đơn theo quy định tại Điều 157 của Bộ luật tố tụng dân sự

- Về án phí dân sự: bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

1. Về thủ tục tố tụng:

[1]1.1. Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Căn cứ vào đơn khởi kiện và các tài liệu chứng cứ kèm theo xác định đây là quan hệ pháp luật tranh chấp hợp đồng tín dụng theo quy định tại khoản 3 Điều 26 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]1.2. Về thẩm quyền giải quyết: Bị đơn bà Nguyễn Thị K có đăng ký hộ khẩu thường trú tại thôn A, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đ nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil theo quy định tại khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[3]1.3. Về sự vắng mặt của bị đơn: Biên bản xác minh ngày 05/4/2021 tại Công an xã Đ thể hiện: bà K có đăng ký hộ khẩu thường trú tại thôn A, xã Đ; tại thời điểm xác minh, bà K không có mặt tại địa phương, không rõ đang sinh sống ở đâu. Vì vậy, Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil đã làm thủ tục thông báo ấn định thời gian làm việc đối với bà K trên Báo công lý các số 40, 41, 42 ra các ngày 18, 21, 25/5/2021; trên Đài tiếng nói Việt Nam phát sóng lúc 17 giờ 50 phút -18 giờ 00 các ngày 23, 24, 25/5/2021 nhưng bà K đều không có thông tin gì. Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số: 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, để tiến hành giải quyết, xét xử vắng mặt bị đơn là đúng quy định.

2. Về nội dung tranh chấp:

2.1. Về hợp đồng tín dụng:

[4]Theo hợp đồng tín dụng số LD1917800685 ngày 27/6/2019 và giấy nhận nợ số 01/LD1917800685 ngày 28/6/2019 thể hiện: Số tiền vay 450.000.000 đồng, thời hạn vay 60 tháng, thời điểm trả hết nợ ngày 28/6/2024; lãi suất 03 tháng đầu tiên 11,2%, tại thời điểm bắt đầu tháng thứ 4 kể từ ngày nhận nợ, lãi suất của toàn bộ dư nợ vay sẽ được Ngân hàng điều chỉnh bằng lãi suất huy động tiết kiệm 13 tháng, lãi cuối kỳ VNĐ (LV13) + biên độ 4.2%/năm và được điều chỉnh định kỳ 3 tháng/lần; kỳ trả gốc 05 kỳ, mỗi kỳ 12 tháng kể từ ngày nhận tiền vay; kỳ trả lãi 10 kỳ, mỗi kỳ 06 tháng kể từ ngày nhận tiền vay. Theo Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng số 202/2019/HĐ ngày 05/8/2019, Hạn mức cấp tín dụng là 30.000.000 đồng; lãi suất 19,2%. Như vậy, việc giao kết hợp đồng tín dụng giữa các bên là có thật, nội dung thỏa thuận trong hợp đồng phù hợp với quy định của pháp luật.

[5]Theo hợp đồng tín dụng số LD1917800685 ngày 27/6/2019 và giấy nhận nợ số 01/LD1917800685 ngày 28/6/2019 thì đến ngày 12/4/2020, bà K phải thanh toán số tiền là 75.052.314 đồng, trong đó tiền gốc là 23.000.000 đồng, tiền lãi là 52.052.314 đồng nhưng bà K không thanh toán; Theo Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng số 202/2019/HĐ ngày 05/8/2019 thì ngày 22/8/2020 bà K có nghĩa vụ thanh toán số tiền là 23.567.629 đồng nhưng bà K không thực hiện nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng đã ký là vi phạm Điều 466 của Bộ luật dân sự do đó Ngân hàng thương mại cổ phần S khởi kiện yêu cầu bà K phải thanh toán số nợ gốc là có căn cứ, cần chấp nhận và buộc bị đơn phải thanh toán số nợ gốc của hợp đồng tín dụng và giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng là 447.755.336 đồng.

[6]Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về lãi suất, Hội đồng xét xử xét thấy: Nội dung thỏa thuận về lãi suất trong hạn, lãi suất quá hạn, lãi phạt chậm trả lãi giữa Ngân hàng TMCP S và bà K theo hợp đồng cho vay, giấy nhận nợ là phù hợp với quy định của Ngân hàng Nhà nước về việc cho vay của các tổ chức tín dụng tại Điều 3, Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng, phù hợp với các quy định tại Điều 357 và Điều 468 của Bộ luật dân sự, do đó cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn buộc bị đơn phải thanh toán lãi suất trong hạn, lãi suất quá hạn và phạt chậm trả lãi tạm tính đến ngày xét xử ngày 30/6/2021, cụ thể: Lãi trong hạn theo hợp đồng là 101.630.242 đồng, lãi quá hạn là 7.008.128 đồng, phạt chậm trả lãi là 6.491.174 đồng. Bà K phải tiếp tục chịu tiền lãi phát sinh theo mức lãi suất quá hạn do các bên thỏa thuận trong Hợp đồng tín dụng, Khế ước nhận nợ kể từ ngày 01/7/2021 cho đến khi trả xong nợ.

2.2. Đối với tài sản thế chấp:

2.2.1. Hiệu lực của hợp đồng thế chấp:

[7]Để bảo đảm cho khoản vay, bà K đã thế chấp tài sản là toàn bộ quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CR 277992 do Sở tài nguyên và môi trường tỉnh Đ cấp ngày 27/6/2019 cho bà K, đối với thửa đất số 82, tờ bản đồ số 69, địa chỉ tại xã Đ, huyện Đ, diện tích 19.522,9m2, mục đích sử dụng: đất trồng cây lâu năm. Việc thế chấp được thực hiện theo Hợp đồng thế chấp tài sản số 0634/19/TCCJ ngày 27/6/2019 được công chứng tại Văn phòng công chứng Nguyễn Văn N và đăng ký thế chấp tại Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện Đ ngày 28/6/2019. Như vậy, Hợp đồng thế chấp giữa các bên được lập đúng hình thức, nội dung và có đăng ký giao dịch đảm bảo theo quy định pháp luật nên có hiệu lực pháp luật.

[8]2.2.2. Về tài sản thế chấp: Tại biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 22/4/2021 xác định các thửa đất số 82, tờ bản đồ số 69 do Sở tài nguyên và môi trường tỉnh Đ cấp ngày 27/6/2019 cấp cho bà K phù hợp với bản đồ giải thửa; Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và trên thực tế phù hợp, đúng vị trí.

[9]3. Đối với bà Nguyễn Thị K, mặc dù đã được Tòa án triệu tập nhiều lần (đã tiến hành thông báo, niêm yết theo đúng quy định của pháp luật) và đã được thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng nhưng không có thông tin, không đến Tòa án làm việc; không cung cấp tài liệu, chứng cứ gì để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình nên phải chịu hậu quả về việc không đưa ra chứng cứ để chứng minh theo khoản 4 Điều 91 Bộ luật tố tụng dân sự.

[10]4. Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn phải bà toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả cho nguyên đơn số tiền tạm ứng án phí đã nộp.

5. Về các chi phí tố tụng khác:

[11]5.1. Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn phải chịu chi phí xem xét thẩm định tại chỗ nhưng do Ngân hàng thương mại cổ phần S đã nộp tạm ứng số tiền 3.000.000 đồng (Ba triệu đồng) chi phí xem xét thẩm định tại chỗ nên bà Nguyễn Thị K phải hoàn trả cho Ngân hàng thương mại cổ phần S số tiền 3.000.000 đồng (Ba triệu đồng) chi phí xem xét thẩm định tại chỗ.

[12]5.2. Về chi phí xác minh, đăng tin: Nguyên đơn phải chịu số tiền 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng) chi phí xác minh, đăng tin theo Điều 180 của Bộ luật tố tụng dân sự và được khấu trừ vào số tiền tạm ứng đã nộp (Nguyên đơn đã thực hiện xong).

[13]Xét quan điểm đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Mil tại phiên toà là có căn cứ và phù hợp với các quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: khoản 3 Điều 26, khoản 1 Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 157, Điều 180, Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 299, Điều 317, Điều 318, Điều 319, Điều 320, Điều 322, Điều 357, Điều 463, Điều 466, Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 3, Điều 91 và Điều 95 của Luật các tổ chức tín dụng; khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng thương mại cổ phần S (nguyên đơn) đối với bà Nguyễn Thị K (bị đơn) về việc tranh chấp hợp đồng tín dụng.

1. Buộc bà Nguyễn Thị K phải trả cho Ngân hàng thương mại cổ phần S tổng số tiền tính đến ngày xét xử sơ thẩm (ngày 30/6/2021) là 562.884.880 đồng (Năm trăm sáu mươi hai triệu tám trăm tám mươi bốn nghìn tám trăm tám mươi đồng), trong đó: Số nợ gốc là 447.755.336 đồng (Bốn trăm bốn mươi bảy triệu bảy trăm năm lăm nghìn ba trăm ba mươi sáu đồng), tiền lãi theo hợp đồng là 101.630.242 đồng (Một trăm lẻ một triệu sáu trăm ba mươi nghìn hai trăm bốn mươi hai đồng), tiền lãi quá hạn là 7.008.128 đồng (Bảy triệu không trăm lẻ tám nghìn một trăm hai mươi tám đồng), phạt chậm trả lãi là 6.491.174 đồng (Sáu triệu bốn trăm chín mốt nghìn một trăm bảy mươi bốn đồng), cụ thể:

- Theo hợp đồng tín dụng số LD1917800685 ngày 27/6/2019 và giấy nhận nợ số 01/LD1917800685 ngày 28/6/2019 là 532.547.264 đồng, trong đó: Nợ gốc là 423.000.000 đồng, nợ lãi trong hạn là 101.630.242 đồng, nợ lãi quá hạn là 1.425.848 đồng và phạt chậm trả lãi là 6.491.174 đồng.

- Theo Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng số 202/2019/HĐ ngày 05/8/2019 là 30.337.616 đồng, trong đó: Nợ gốc là 24.755.336 đồng và nợ lãi quá hạn là 5.582.280 đồng Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm, bà Nguyễn Thị K phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi phát sinh theo mức lãi suất được thỏa thuận tại hợp đồng cho vay và giấy nhận nợ cho đến khi trả xong nợ. Trường hợp trong hợp đồng tín dụng, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng cho vay theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay.

2. Trường hợp bà Nguyễn Thị K không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ trả nợ thì Ngân hàng thương mại cổ phần S có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ là toàn bộ quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CR 277992 do Sở tài nguyên và môi trường tỉnh Đ cấp ngày 27/6/2019, đối với thửa đất số 82, tờ bản đồ số 69, địa chỉ tại xã Đ, huyện Đ đứng tên bà Nguyễn Thị K.

3. Về án phí dân sự: Bà Nguyễn Thị K phải nộp số tiền 26.515.392 đồng (Hai mươi sáu triệu năm trăm mười lăm nghìn ba trăm chín mươi hai đồng) án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả cho Ngân hàng thương mại cổ phần S, chi nhánh Đ số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 11.868.000 đồng (Mười một triệu tám trăm sáu mươi tám nghìn đồng) theo biên lai số 0003819 ngày 24/12/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ.

4. Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ: Bà Nguyễn Thị K có nghĩa vụ hoàn trả cho Ngân hàng thương mại cổ phần S số tiền 3.000.000 đồng (Ba triệu đồng) chi phí xem xét thẩm định tại chỗ.

5. Về chi phí đăng tin: Ngân hàng thương mại cổ phần S phải chịu số tiền 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng) chi phí đăng tin và được khấu trừ vào số tiền 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng) tạm ứng chi phí đăng tin đã nộp tại Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil.

6. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án; bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, Quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

214
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 63/2021/DS-ST ngày 30/06/2021 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

Số hiệu:63/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đắk Mil - Đăk Nông
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 30/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;