Bản án 61/2021/HS-ST ngày 26/03/2021 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THỦ DẦU MỘT, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 61/2021/HS-ST NGÀY 26/03/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 26 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 27/2021/TLST-HS ngày 03 tháng 02 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 41/2021/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 02 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Võ Trung H, sinh năm: 1986 tại tỉnh V. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: phường X, thành phố V, tỉnh V. Trình độ học vấn: 5/12; Nghề nghiệp: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam; con ông Lê Văn M (Đã chết) và bà Võ Thị B; có vợ: Trần Thị Thúy Q và có 02 người con. Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 01/11/2020 và tạm giam cho đến nay.

Bị cáo có mặt.

Nhân thân: Ngày 25/4/2013, bị Tòa án nhân dân thành phố V, tỉnh V xử phạt 03 năm tù về tội Trộm cắp tài sản, quy định tại điểm e khoản 2 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009 theo Bản án hình sự sơ thẩm số 31/2013/HSST.

Bị hại: Ông Lê Văn X, sinh năm 1954; địa chỉ: khu phố X, phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương. Vắng mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Võ Thị B, sinh năm 1952; địa chỉ: phường X, thành phố V, tỉnh V. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 02 giờ 50 phút ngày 01/11/2020, anh Lê Minh T xem camera thì phát hiện có 01 (một) đối tượng đột nhập vào nhà ông Lê Văn X (ông X là ba ruột anh T) nên anh T đã gọi điện báo Công an phường P. Ngay lập tức, Công an phường P đi đến nhà ông X để kiểm tra thì phát hiện và tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với H về hành vi trộm cắp tài sản và thu giữ được số vật chứng, gồm: 01 (một) điện thoại di dộng hiệu V3, màu đen thạch anh; 01 (một) chiếc đồng hồ đeo tay OP; 700.000 (bảy trăm ngàn) đồng, 01 (một) xe mô tô hiệu YN, màu trắng đen, biển số 60B1-208.XY.

Quá trình xác minh, điều tra Võ Trung H khai nhận: Khoảng 21 giờ 30 phút ngày 31/10/2020, H điều khiển xe mô tô hiệu YN, màu trắng đen, biển số 60B1-208.XY đi từ vòng xoay AP, thành phố TA, tỉnh Bình Dương đến phường P, thành phố T để tìm bạn nhưng không tìm được bạn và do lúc này không có tiền tiêu xài nên H nảy sinh ý định đột nhập nhà vắng chủ để tìm tài sản lấy trộm. Khi H đi ngang nhà ông Lê Văn X, địa chỉ khu X, phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương thì H nhìn thấy nhà không có cửa cổng và có để 02 (hai) chiếc xe ô tô ở bên ngoài nên H mở cửa xe ô tô rồi vào trong xe lục tìm thì thấy có 01 (một) chùm chìa khóa nhà của ông X. H lấy chùm chìa khóa và ra khỏi xe ô tô rồi đến mở cửa đi vào trong nhà và lục tìm dưới sào đồ thì thấy có chiếc điện thoại di động hiệu V3, màu đen thạch anh, sau đó H tiếp tục lục túi quần và lấy được số tiền 700.000 (bảy trăm ngàn) đồng. Sau khi lấy được điện thoại và tiền, H đi đến giường thì thấy có chiếc đồng hồ đeo tay hiệu OP để trên giường nên H lấy bỏ vào túi quần. Khi H vừa lấy trộm được những tài sản trên thì bị Công an phường P đến phát hiện và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ những vật chứng nêu trên.

Căn cứ Bản kết luận định giá tài sản số 29/KLTS-TTHS ngày 05/11/2020 của Hội đồng định giá thường xuyên tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Thủ Dầu Một kết luận: 01 (một) điện thoại di dộng hiệu V3, màu đen thạch anh, trị giá 2.500.000 (hai triệu năm trăm ngàn) đồng; 01 (một) chiếc đồng hồ đeo tay OP, trị giá 1.000.000 (một triệu) đồng. Như vậy, tổng trị giá tài sản Võ Trung H đã chiếm đoạt của ông Lê Văn X là 4.200.000 (bốn triệu hai trăm ngàn) đồng.

Đối với 01 (một) điện thoại di dộng hiệu V3, màu đen thạch anh; 01 (một) chiếc đồng hồ đeo tay OP và số tiền 700.000 (bảy trăm ngàn) đồng là tài sản của ông Lê Văn X nên ngày 06/11/2020 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thủ Dầu Một đã trả lại cho ông X theo Quyết định xử lý vật chứng số 132 ngày 06/11/2020. Hiện nay ông X không có yêu cầu gì khác đối với Võ Trung H.

Đối với 01 (một) chiếc xe mô tô hiệu YN, màu trắng đen, biển số 60B1-208.XY, quá trình điều tra xác định xe mô tô trên là tài sản của mẹ ruột Võ Trung H là bà Võ Thị B cho H mượn làm phương tiện đi lại. Do đó, ngày 02/12/2020 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thủ Dầu Một đã trả lại cho bà B theo Quyết định xử lý vật chứng số 133 ngày 25/01/2021. Hiện bà B không có yêu cầu gì khác đối với H.

Cáo trạng số 45/CT-VKS-HS ngày 01/02/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một truy tố bị cáo Võ Trung H về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một trong phần tranh luận, giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo mức hình phạt từ 08 (tám) tháng đến 11 (mười một) tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự: Không đề nghị xem xét, giải quyết.

Về biện pháp tư pháp: Không có.

Tại phần tranh luận, bị cáo không tranh luận với Viện Kiểm sát về tội danh, khung hình phạt và mức hình phạt đã đề nghị. Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, Kiểm sát viên trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, không ai có ý kiến hoặc kH nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, quyết định, hành vi tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là phù hợp với quy định của pháp luật.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, biên bản hỏi cung bị can, biên bản lấy lời khai của bị hại cùng những tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: Khoảng 02 giờ 50 phút ngày 01/11/2020, tại nhà ông Lê Văn X, địa chỉ khu 2, phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương, bị cáo Võ Trung H đã lén lút thực hiện hành vi chiếm đoạt của bị hại Lê Văn X số tài sản, gồm: 01 (một) điện thoại di dộng hiệu V3, màu đen thạch anh trị giá 2.500.000 (hai triệu năm trăm ngàn) đồng; 01 (một) chiếc đồng hồ đeo tay OP trị giá 1.000.000 (một triệu) đồng và 700.000 (bảy trăm ngàn) đồng. Tổng trị giá tài sản bị chiếm đoạt là 4.200.000 (bốn triệu hai trăm ngàn) đồng. Do đó, hành vi mà bị cáo thực hiện đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự. Vì vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một truy tố bị cáo theo tội danh và điều khoản như trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ; gây mất trật tự, trị an tại địa phương nơi xảy ra vụ án. Về nhận thức, bị cáo biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vì tham lam mà bị cáo đã bất chấp sự trừng phạt của pháp luật, thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Do đó, để có tác dụng giáo dục bị cáo đồng thời nhằm đấu tranh phòng chống tội phạm chung, cần có mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để có tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội.

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; tài sản đã được thu hồi giao trả cho bị hại. Đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Căn cứ vào nhân thân cũng như các tình tiết giảm nhẹ, xét mức hình phạt mà Đại diện Viện kiểm sát đề nghị đối với bị cáo là phù hợp.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Không đặt ra xem xét, giải quyết.

[7] Về biện pháp tư pháp: Không có.

[8] Án phí sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 136, 260, 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1/ Tuyên bố bị cáo Võ Trung H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2/ Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Võ Trung H 10 (mười) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 01/11/2020.

3/ Về trách nhiệm dân sự: Không đặt ra xem xét, giải quyết.

4/ Về biện pháp tư pháp: Không có.

5/ Về án phí: Buộc bị cáo nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

265
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 61/2021/HS-ST ngày 26/03/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:61/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thủ Dầu Một - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;