Bản án 59/2021/HNGĐ-ST ngày 19/03/2021 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 59/2021/HNGĐ-ST NGÀY 19/03/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN 

Ngày 19 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 2656/2020/TLST-HNGĐ ngày 10 tháng 12 năm 2020, về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 21/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 27 tháng 01 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 49/2021/QĐST-HNGĐ ngày 25 tháng 02 năm 2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn : Ông Trần Thanh P, sinh năm 1993 Địa chỉ: Số 197/3, khu phố T, phường H, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.

- Bị đơn Bà Dương Thị Mỹ T, sinh năm 1997 Địa chỉ: Số 197/3, khu phố T, phường H, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.

(Ông P có đơn xin xét xử vắng mặt, bà T vắng mặt không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, Biên bản phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ - Nguyên đơn ông Trần Thanh P trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Ông P và bà T chung sống và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường H, thành phố B, tỉnh Đồng Nai, được cấp giấy chứng nhận số 74 ngày 28/7/2015, hôn nhân tự nguyện. Cuộc sống vợ chồng chung sống hạnh phúc được thời gian đầu, từ năm 2019 đến nay thường xuyên phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do vợ chồng không có tiếng nói chung, bất đồng quan điểm sống quá nhiều, không tôn trọng lẫn nhau. Ông P nhận thấy cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với bà Dương Thị Mỹ T.

- Về con chung: Ông P và bà T có 02 con chung là Trần Ngọc P, sinh ngày 06/3/2016 và Trần Ngọc T, sinh ngày 06/3/2016. Khi ly hôn, ông P xin nhận nuôi cả hai con, tạm thời không yêu cầu bà T phải cấp dưỡng.

- Về tài sản chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Bà Dương Thị Mỹ T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt nên không ghi nhận được ý kiến.

Ý kiến ca Viện kiểm sát nhân dân thnh phố B:

Về việc kiểm sát chấp hành pháp luật tố tụng: Về quan hệ pháp luật, tư cách đương sự và thẩm quyền giải quyết, Tòa án đã xác định đúng theo quy định pháp luật. Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn trong quá trình giải quyết vụ án đảm bảo theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng Dân sự. Bị đơn chấp hành không đúng. Tòa án đã tiến hành đầy đủ các thủ tục tố tụng theo quy định pháp luật.

Về việc giải quyết tranh chấp:

- Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận cho ông Trần Thanh P được ly hôn với bà Dương Thị Mỹ T.

- Về quan hệ con chung: Quá trình chung sống, ông P và bà T có 02 con chung là Trần Ngọc P, sinh ngày 06/3/2016 và Trần Ngọc T, sinh ngày 06/3/2016. Khi ly hôn, giao cho ông P nuôi cả hai con, tạm thời bà T không phải cấp dưỡng do ông P không yêu cầu.

- Về tài sản chung và nợ chung: Theo ông P khai, ông và bà T không có tài sản chung và không có nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Nhưng do Tòa án chưa ghi nhận được ý kiến của bà T về tài sản chung và nợ chung nên sẽ giải quyết bằng một vụ án khác khi các đương sự có yêu cầu.

- Về án phí: Ông Trần Thanh P phải chịu án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng:

- Ông Trần Thanh P khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với bà Dương Thị Mỹ T; Căn cứ vào Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xác định quan hệ pháp luật của vụ án là “Tranh chấp ly hôn”. Căn cứ vào Điều 68 Bộ luật tố tụng dân sự xác định ông P là nguyên đơn, bà T là bị đơn trong vụ án.

- Theo Biên bản xác minh ngày 15/12/2020 tại Công an phường H thì hiện nay bà Dương Thị Mỹ T có đăng ký thường trú và đang sinh sống tại địa chỉ số 197/3, khu phố T, phường H, thành phố B, tỉnh Đồng Nai. Do đó, căn cứ các Điều 28, 35, 39 Bộ luật tố tụng dân sự xác định vụ kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đồng Nai.

- Ngày 29/01/2021, ông Trần Thanh P có đơn xin xét xử vắng mặt, nên Tòa án xét xử vắng mặt ông P theo quy định tại khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Tòa án nhân dân thành phố B tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Quyết định hoãn phiên tòa cho bị đơn là bà Dương Thị Mỹ T để tham gia phiên tòa theo quy định của pháp luật nhưng bà T vắng mặt không có lý do. Vì vậy, theo quy định tại khoản 3 Điều 228 và Điều 238 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt ông P và bà T.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Ông P và bà T chung sống và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường H, thành phố B, tỉnh Đồng Nai, được cấp giấy chứng nhận số 74 ngày 28/7/2015, hôn nhân tự nguyện. Do đó, cần áp dụng các quy định tại Điều 8, 9 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014, xác định đây là hôn nhân hợp pháp. Cuộc sống vợ chồng chung sống hạnh phúc được thời gian đầu, từ năm 2019 đến nay thường xuyên phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do vợ chồng không có tiếng nói chung, bất đồng quan điểm sống quá nhiều, không tôn trọng lẫn nhau, mục đích hôn nhân không đạt được. Xét yêu cầu ly hôn của ông P là có cơ sở chấp nhận, bởi lẽ theo quy định tại Điều 19 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 thì vợ chồng có nghĩa vụ yêu thương, quý trọng chăm sóc giúp đỡ lẫn nhau để cùng xây dựng gia đình hạnh phúc. Nhưng theo biên bản xác minh ngày 16/12/2020 tại Ủy ban nhân dân phường H thể hiện ông P và bà T chung sống với nhau có mâu thuẫn hay không thì địa P không nắm được, do các đương sự không trình báo. Tuy nhiên, theo ông P trình bày, trong quá trình chung sống, vợ chồng thường xảy ra mâu thuẫn, không thể hàn gắn, vợ chồng không còn tình cảm, không yêu thương chăm lo cho nhau nữa. Tòa án cũng đã nhiều lần triệu tập bà T để hòa giải đoàn tụ nhưng bà T đều vắng mặt không lý do, bỏ mặc hạnh phúc gia đình, không có động thái tích cực để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Như vậy, thể hiện việc mâu thuẫn trong tình cảm giữa ông P và bà T là có thật, mục đích hôn nhân không đạt được, vợ chồng không còn quan tâm, yêu thương, chăm sóc lẫn nhau. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, chấp nhận cho ông P được ly hôn với bà T.

[3] Về con chung: Quá trình chung sống, ông P và bà T có 02 con chung là Trần Ngọc P, sinh ngày 06/3/2016 và Trần Ngọc T, sinh ngày 06/3/2016. Khi ly hôn, ông P xin được nuôi cả hai con, tạm thời không yêu cầu bà T phải cấp dưỡng. Theo Biên bản xác minh ngày 16/12/2020 tại Ủy ban nhân dân phường H thì hiện nay, các cháu P và T đều đang sống cùng ông P và do ông P trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng nên cần duy trì sự ổn định về cuộc sống và tâm tư tình cảm cho các cháu. Vì vậy, yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng hai con chung của ông P là có căn cứ chấp nhận. Tạm thời bà T không phải cấp dưỡng nuôi con do ông P không yêu cầu. Bà T được quyền đi lại thăm nom con chung, không ai được cản trở. Vì quyền lợi của con chung, khi cần thiết các bên có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Theo ông P khai, ông và bà T không có tài sản chung và không có nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Nhưng do Tòa án chưa ghi nhận được ý kiến của bà T về tài sản chung và nợ chung nên sẽ giải quyết bằng một vụ án khác khi các đương sự có yêu cầu.

[5] Về án phí: Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, ông Trần Thanh P phải nộp 300.000 đồng án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 228, Điều 238, Điều 266, Điều 271 Bộ luật tố tụng dân sự;

- Áp dụng các Điều 8, 9 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014;

- Áp dụng Điều 19, 53, 56, 57, 58, 59, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trần Thanh P, ông Trần Thanh P được ly hôn với bà Dương Thị Mỹ T.

Về con chung: Quá trình chung sống, ông P và bà T có 02 con chung là Trần Ngọc P, sinh ngày 06/3/2016 và Trần Ngọc T, sinh ngày 06/3/2016. Khi ly hôn, giao cho ông P được nuôi cả hai con, tạm thời bà T không phải cấp dưỡng do ông P không yêu cầu. Bà T được quyền đi lại thăm nom con chung, không ai được cản trở. Vì quyền lợi của con chung, khi cần thiết các bên có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Theo ông P khai, ông và bà T không có tài sản chung và không có nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Nhưng do Tòa án chưa ghi nhận được ý kiến của bà T về tài sản chung và nợ chung nên sẽ giải quyết bằng một vụ án khác khi các đương sự có yêu cầu.

Về án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Ông Trần Thanh P phải nộp 300.000 đồng án phí, được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai số 0007681 ngày 07/12/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B. Ông P đã nộp đủ án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Ông Trần Thanh P và bà Dương Thị Mỹ T vắng mặt nên có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

165
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 59/2021/HNGĐ-ST ngày 19/03/2021 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:59/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;