Bản án 56/2020/HSST ngày 05/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HAI BÀ TRƯNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 56/2020/HSST NGÀY 05/05/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Hôm nay, ngày 05 tháng 5 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 69/2020/HSST ngày 16 tháng 3 năm 2020 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 104/2020/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 4 năm 2020 đối với bị cáo:

Phạm Phi L, Sinh năm: 1966; HKTT và nơi ở: P406A2 tập thể T, phường Đ, quận H1, thành phố H2; Nghề nghiệp: tự do; Văn hóa: 9/10; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Con ông: Phạm Văn P; Con bà: Đặng Thị T; Tiền án, tiền sự: 01 tiền án Ngày 28/5/1998, Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng xử 24 tháng tù về Tội Cố ý gây thương tích. Chưa đóng án phí, chưa được xóa.

Nhân thân:

+ Năm 1981, 1983, 1986, 1997 bị xử phạt hành chính 05 lần về các hành vi trộm cắp tài sản, cưỡng đoạt tài sản, cố ý gây thương tích và mua bán trái phép chất ma túy.

+ Ngày 02/12/2008, Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng xử 28 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Chấp hành xong hình phạt ngày 02/01/2011 (đã được xóa án tích).

Danh chỉ bản số 71 ngày 31/12/2019 do Công an quận Hai Bà Trưng thành phố Hà Nội lập. Bị bắt quả tang ngày 30/12/2019. Hiện đang bị tạm giam tại trại tạm giam số 1 – Công an thành phố Hà Nội.

Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau :

Hồi 23 giờ 35 phút ngày 30/12/2019, tại khu vực trước cửa số nhà 130 Lạc Trung, phường Vĩnh Tuy, Hai Bà Trưng, tổ công tác Công an phường Vĩnh Tuy, Hai Bà Trưng, Hà Nội phối hợp với tổ công tác C2 D2 PK02E – Công an thành phố Hà Nội phát hiện Phạm Phi L có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra. L tự giác lấy 01 gói giấy màu trắng, kích thước khoảng 2x2cm, bên trong chứa các hạt tinh thể màu trắng và 02 viên nén màu hồng tại túi quần nhỏ phía trước bên phải L đang mặc cho tổ công tác. Tại chỗ, L khai nhận là ma túy đá, mang theo để sử dụng. Tổ công tác đã lập biên bản, đưa L cùng vật chứng về trụ sở Công an phường Vĩnh Tuy để giải quyết. Ngoài ra, tổ công tác còn thu giữ của L 01 chiếc xe máy kiểu dáng Honda AirBlade, BKS 29B1 – 04379.

Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an quận Hai Bà Trưng đã ra Quyết định trưng cầu giám định đối với số ma túy thu giữ trên. Tại bản Kết luận giám định số 210/KLGĐ-PC09 ngày 08/01/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội kết luận:

“- Tinh thể màu trắng là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,273 gam.

 - 02 viên nén màu hồng đều là ma túy loại Methamphetamine, tổng khối lượng: 0,212 gam”.

Tại Cơ quan điều tra, bị can Phạm Phi L khai nhận: Khoảng 23 giờ ngày 30/12/2019, L điều khiển xe máy nhãn hiệu Honda AirBlade, BKS 29B1 – 04379 đến khu vực lối rẽ từ đường Nguyễn Khoái xuống gầm cầu Vĩnh Tuy, phường Vĩnh Tuy, Hai Bà Trưng thì dừng lại để đi vệ sinh. Tại đây, L nhặt được 01 gói ma túy và cất vào túi quần nhỏ phía trước bên phải L đang mặc. Sau đó, L điều khiển xe máy đi tìm nơi sử dụng, đến khu vực trước cửa số 130 Lạc Trung, phường Vĩnh Tuy, Hai Bà Trưng thì bị kiểm tra bắt giữ như trên.

Đối với 01 gói ma túy thu giữ của bị can Phạm Phi L, do không xác định được người làm rơi gói ma túy trên nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xác minh, xử lý.

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Honda AirBlade, BKS 29B1 – 043.79: qua xác minh, thuộc sở hữu của chị Cấn Thị Như T. Ngày 30/12/2019, chị T cho L mượn xe máy để đi có việc, không biết và không liên quan đến việc L tàng trữ ma túy. Vì vậy, Cơ quan điều tra ra quyết định xử lý vật chứng, trao trả cho chị T chiếc xe máy trên. Chị T đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu, đề nghị gì.

Tại bản cáo trạng số 71/CT/VKS-HS ngày 10 tháng 3 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội truy tố Phạm Phi L về Tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội phân tích nội dung vụ án, đánh giá tính chất mức độ phạm tội, nhân thân của bị cáo và vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố; đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự 2015 xử phạt bị cáo từ 24 tháng đến 30 tháng tù; tịch thu tiêu hủy số ma túy.

Bị cáo Phạm Phi L đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên và bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

Về hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, Quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 23 giờ 35 phút ngày 30/12/2019, tại khu vực trước cửa số nhà 130 Lạc Trung, phường Vĩnh Tuy, Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội, bị can Phạm Phi L có hành vi tàng trữ trái phép 0,485 gam Methamphetamine để sử dụng.

Hành vi của bị cáo xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền của nhà nước về chất ma tuý. Bị cáo nhận thức rõ hành vi của mình bị pháp luật cấm, thấy trước được tác hại của hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý nhưng vẫn cố ý thực hiện. Tại phiên toà bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình theo bản cáo trạng và lời luận tội của Viện kiểm sát, do đó Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận Phạm Phi L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015. Viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội truy tố và kết luận về hành vi phạm tội của bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, có nhân thân xấu, 05 tiền sự, 02 tiền án, trong đó có 01 tiền án chưa được xóa, nên phạm tội lần này thuộc trường hợp tái phạm theo điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử xét thấy trong quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối lỗi, do đó cần cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015.

* Về hình phạt bổ sung: theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015 “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản…”. Do đó, có thể áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo, tuy nhiên bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, không có thu nhập nên không áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo.

* Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy

* Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. luật.

 * Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định của pháp

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Phạm Phi L phạm Tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 ; Điều 38 Bộ luật hình sự 2015.

Xử phạt: Phạm Phi L 28 (hai tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 30/12/2019.

* Về xử lý vật chứng:

Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự 2015, Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015;

 -Tịch thu tiêu hủy 01 bì giấy đã niêm phong bên ngoài có chữ ký của giám định viên và của Phạm Phi L .

Vật chứng trên hiện đang bảo quản tại Chi cục thi hành án dân sự quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 05/3/2020 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội và Chi cục thi hành án dân sự quận Hai Bà Trưng, Thành phố Hà Nội.

* Về án phí:

Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015; điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội Buộc bị cáo Phạm Phi L phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

* Về quyền kháng cáo:

Áp dụng các Điều 331 và 333 của Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

167
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 56/2020/HSST ngày 05/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:56/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hai Bà Trưng - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;