Bản án 55/2021/HNGĐ-ST ngày 23/04/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 55/2021/HNGĐ-ST NGÀY 23/04/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 23 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở TAND tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 251/2020/TLST-HNGĐ ngày 14/12/2020 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 07/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 22/3/2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 37/QĐST-HNGĐ ngày 07/4/2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Nguyễn Huy H - sinh năm 1979; địa chỉ: Thôn XN, xã HĐ, huyện TK, tỉnh Hải Dương.

- Bị đơn: Chị Vũ Thị G - sinh 1988, địa chỉ trước khi xuất cảnh: Thôn XN, xã HĐ, huyện TK, tỉnh Hải Dương; Nơi cư trú hiện nay: Đài Loan.

- Người làm chứng: Bà Nguyễn Thị T - sinh 1965, địa chỉ: Thôn XN, xã HĐ, huyện TK, tỉnh Hải Dương.

Anh H, chị G và bà T đều vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn xin ly hôn, bản tự khai, biên bản lấy lời khai anh H trình bày: Anh và chị G kết hôn trên cơ sở tự do tìm hiểu, tự nguyện đăng ký kết hôn tại UBND xã HĐ, huyện TK, tỉnh Hải Dương vào ngày 15/12/2005 và được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới theo phong tục. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc được khoảng 06 năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm, thường xuyên xảy ra cãi nhau do không có tiếng nói chung trong cách làm ăn. Đến tháng 8/2019 chị G đi lao động tại Đài Loan, còn anh ở nhà nuôi con, thời gian đầu hai bên có liên lạc hỏi thăm, động viên nhau làm ăn, nhưng gần đây hai bên không còn quan T đến nhau nữa. Nay anh xác định tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống chung không có hạnh phúc, đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn chị G để sớm ổn định cuộc sống riêng.

Về con chung: Anh xác định vợ chồng có 01 con chung là Nguyễn Thành L, sinh ngày 25/8/2006, hiện đang ở với anh. Nguyện vọng của anh xin được tiếp tục nuôi dưỡng con chung và tự nguyện không yêu cầu chị G phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung.

Về tài sản chung, vay nợ: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong quá trình giải quyết vụ án, anh không cung cấp được địa chỉ cụ thể của chị G tại Đài Loan.

- Bà Nguyễn Thị T (là mẹ đẻ chị G) trình bày: Anh H và chị G tự do tìm hiểu, tự nguyện kết hôn tại UBND xã HĐ, huyện TK vào năm 2005. Sau ngày cưới, anh chị tổ chức cuộc sống chung vui vẻ, hòa thuận được khoảng vài năm thì xảy ra mâu thuẫn, tuy nhiên anh chị vẫn bảo ban làm ăn, giữ gìn hạnh phúc gia đình cho đến giữa năm 2019 chị G đi lao động tại Đài Loan. Từ đó anh H và chị G sống mỗi người một nơi, không còn quan T đến cuộc sống của nhau nữa, cho đến nay chị G vẫn chưa về Việt Nam sinh sống. Sau khi bà nhận Thông báo về việc thụ lý vụ án và các văn bản của Tòa án, bà đã thông báo qua điện thoại cho chị G biết về việc anh H làm đơn xin ly hôn và yêu cầu giải quyết việc nuôi dưỡng con chung. Do chị G không cho biết địa chỉ cụ thể ở Đài Loan nên bà không thể cung cấp địa chỉ hiện nay của chị G cho Tòa án được, chị G cũng không gửi ý kiến bằng văn bản về cho Tòa án nhưng có quan điểm xác định tình cảm vợ chồng không còn, không muốn níu kéo cuộc sống chung nên nhất trí ly hôn và đề nghị giải quyết vắng mặt; Về con chung: Chị G nhất trí để anh H tiếp tục được nuôi con chung; Về tài sản chung: Chị G không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại công văn số 770/QLXNC-P5 ngày 07/01/2021 của Cục quản lý xuất nhập cảnh Bộ Công an xác định chị Vũ Thị G, sinh ngày 20/12/1988, căn cước công dân số 030188007891, khai địa chỉ tại xã HĐ, huyện TK, tỉnh Hải Dương; đã được Cục Quản lý xuất nhập cảnh cấp lần lượt 02 hộ chiếu; có thông tin xuất cảnh ngày 04/8/2019 qua cửa khẩu Nội Bài bằng hộ chiếu số C7252806, hiện chưa có thông tin nhập cảnh.

Đại diện VKSND tỉnh Hải Dương tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm xác định việc chấp hành tố tụng của những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng đảm bảo quy định của pháp luật. Về hướng giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự, Nghị quyết 326/2016/QH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho anh Nguyễn Huy H được ly hôn chị Vũ Thị G; Về con chung: Giao anh H trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chung Nguyễn Thành L, sinh ngày 25/8/2006 cho đến khi con đủ 18 tuổi, chấp nhận sự tự nguyện của anh H không yêu cầu chị G cấp dưỡng tiền nuôi con chung; Về tài sản chung, vay nợ: Các đương sự không yêu cầu nên không xem xét; Về án phí: Anh H phải chịu 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên toà, Tòa án nhận định:

[1] Về tố tụng: Nguyên đơn anh Nguyễn Huy H vắng mặt tại phiên tòa nhưng đã có đề nghị xin xử vắng mặt. Căn cứ khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh H.

Chị Vũ Thị G là bị đơn trong vụ án là người Việt Nam đang lao động tại Đài Loan nhưng không rõ địa chỉ, tuy nhiên chị G vẫn thường xuyên liên lạc với thân nhân ở trong nước. Tòa án đã yêu cầu anh H cũng như bà Nguyễn Thị T (mẹ đẻ chị G) cung cấp địa chỉ của chị G nhưng không cung cấp được nên Tòa án giải quyết vụ án theo thủ tục chung. Tòa án đã tống đạt, niêm yết các văn bản tố tụng hợp lệ nhưng chị G vẫn vắng mặt tại phiên tòa đến lần thứ hai. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt chị G.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Anh H và chị G tự do tìm hiểu, tự nguyện đăng ký kết hôn tại UBND xã HĐ, huyện TK, tỉnh Hải Dương vào ngày 15/12/2005. Do đó hôn nhân của anh chị là hợp pháp.

Sau khi kết hôn, anh chị tổ chức cuộc sống chung vui vẻ, hòa thuận được khoảng 06 năm thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống, nhưng anh chị vẫn duy trì được cuộc sống chung cho đến tháng 8/2019 thì chị G đi lao động tại Đài Loan, còn anh H ở nhà nuôi con, mỗi người sống một nơi. Từ đó, do anh chị không còn liên lạc, quan T đến cuộc sống của nhau. Anh H xác định tình nghĩa vợ chồng không còn, cuộc sống chung không có hạnh phúc nên đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn, thông qua gia đình chị G cũng xác định mâu thuẫn vợ chồng không thể hàn gắn, tình cảm vợ chồng không còn nên nhất trí ly hôn. Xét mâu thuẫn của anh chị đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình cần xử cho anh H được ly hôn chị G là phù hợp.

[3] Về con chung: Anh H và chị G có 01 con chung là Nguyễn Thành L, sinh ngày 25/8/2006, hiện đang ở với anh H. Nguyện vọng của anh H xin được tiếp tục nuôi dưỡng con chung, tự nguyện không yêu cầu chị G phải cấp dưỡng tiền nuôi con và cam kết có đủ điều kiện để nuôi con đến khi trưởng thành. Xét thấy anh H đang nuôi dưỡng cháu Long vẫn bảo đảm về mọi mặt và cháu Long có nguyện vọng xin được ở với bố; chị G hiện đang ở nước ngoài cũng có quan điểm nhất trí để anh H tiếp tục được nuôi con. Do vậy cần giao anh H tiếp tục trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng cháu Long và chấp nhận sự tự nguyện của anh H không yêu cầu chị G cấp dưỡng tiền nuôi con là phù hợp với quy định tại các Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình.

[4] Về tài sản chung, vay nợ: Anh H không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

[5] Về án phí: Anh H là nguyên đơn nên phải chịu án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1, 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho anh Nguyễn Huy H được ly hôn chị Vũ Thị G.

2. Về con chung: Giao anh Nguyễn Huy H trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chung là Nguyễn Thành L, sinh ngày 25/8/2006 cho đến khi con đủ 18 tuổi, trưởng thành. Chấp nhận sự tự nguyện của anh H không yêu cầu chị G cấp dưỡng tiền nuôi con chung.

Chị G có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung, vay nợ: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về án phí: Anh Nguyễn Huy H phải chịu 300.000đ án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000đ tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Hải Dương theo biên lai thu số AA/2018/0004823 ngày 14/12/2020. Anh H đã nộp đủ án phí sơ thẩm ly hôn.

5. Về quyền kháng cáo: Anh H vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết. Chị G đang ở nước ngoài vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

122
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 55/2021/HNGĐ-ST ngày 23/04/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:55/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;