Bản án 45/2018/HS-ST ngày 29/08/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ TĨNH, TỈNH HÀ TĨNH

BẢN ÁN 45/2018/HS-ST NGÀY 29/08/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 29 tháng 8 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hà Tĩnh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 46/2018/TLST-HS ngày 03 tháng 8 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 44/2018/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 8 năm 2018 đối với bị cáo:

Bùi Đình H, sinh ngày 10 tháng 9 năm 1988 tại huyện Đ, tỉnh Hà Tĩnh; Nơi cư trú: Tổ 2, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Hà Tĩnh; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 6/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Bùi Đình H1 và bà Trần Thị H2; Vợ, con: Chưa có; Tiền sự: Không; Tiền án:02, cụ thể: Ngày 27/08/2012, bị Toà án nhân dân huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh xửphạt 42 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 42/2012/HSST (đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 08/07/2015, chưa được xóa án tích); Ngày 22/04/2016, bị Toà án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh xử phạt 24 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 47/2016/HSST (đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 15/11/2017, chưa được xóa án tích); Nhân thân: Ngày 02/04/2003, bị Ủy ban nhân dân huyện Đ quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào Trường Giáo dưỡng trong thời hạn 24 tháng, thi hành tại Trường Giáo dưỡng số 2, tỉnh Ninh Bình (ngày 25/11/2004 chấp hành xong); Ngày 27/02/2006, bị Toà án nhân dân thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 73/2006/HSST (Bị cáo phạm tội khi chưa đủ 18 tuổi); Ngày 29/06/2006, bị Toà án nhân dân huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 11/2006/HSST (Bị cáo phạm tội khi chưa đủ 18 tuổi); Ngày 19/09/2006, bị Toà án nhân dân huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh xử phạt 36 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 23/2006/HSST (Bị cáo phạm tội khi chưa đủ 18 tuổi). Tổng hợp hình phạt chung của ba bản án là 5 năm 2 tháng 21 ngày (đã chấp hành xong hình phạt tù ngày29/04/2011); Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 02/6/2018 đến nay; Có mặt

- Bị hại: Chị Đinh Thị L; Sinh năm: 1973; Nơi cư trú: Tổ 2, phường P, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh; Nghề nghiệp: Cán bộ – Vắng mặt

- Người làm chứng:

1. Chị Phạm Thị Thiều A; Sinh năm 1989; Trú tại: Tổ 2, thị trấn Đ, huyệnĐ, tỉnh Hà Tĩnh – Vắng mặt;

2. Anh Phạm Ngọc B; Sinh năm 1998; Trú tại: Tổ 2, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Hà Tĩnh – Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 08 giờ ngày 31/05/2018, khi đi bộ qua nhà số 08 ngõ 26 đường N thuộc tổ 2, phường P, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh, Bùi Đình H phát hiện có một chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha màu xanh, biển kiểm soát: 38H3- 4779 của chị Đinh Thị L đang dựng trong sân, cổng nhà không đóng, trên ổ khóa điện xe có cắm chìa khóa nên Hải nảy sinh ý định trộm cắp chiếc xe trên để sử dụng. Quan sát bên trong nhà không có người, Bùi Đình H đi vào sân dắt xe ra phía bên ngoài rồi dùng tay mở khóa điện nổ máy điều khiển xe chạy về thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Hà Tĩnh rồi đi huyện N, tỉnh Nghệ An chơi. Sáng ngày 02/6/2018, Bùi Đình H mang chiếc xe mô tô trên đến gửi tại quán cà phê V ở tổ 2, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Hà Tĩnh của chị Phạm Thị Thiều A. Lúc đó, anh Phạm Ngọc B (em của chị A) đang ở quán cà phê V thấy H gửi xe nên mượn xe đi đám cưới rồi quay lại để xe ở quán. Đến chiều ngày 02/6/2018, sau khi bị phát hiện, Bùi Đình H đến Cơ quan Công an thành phố Hà Tĩnh đầu thú. Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã thu giữ chiếc xe mô tô trên tại quán cà phê V của chị Phạm Thị Thiều A trả lại cho chị Đinh Thị L, chị L không yêu cầu bồi thường gì thêm.

Theo Kết luận định giá tài sản số 44 ngày 05/06/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thuộc Ủy ban nhân dân thành phố Hà Tĩnh xác định: 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha màu xanh, biển kiểm soát: 38H3- 4779, số khung: 076839, số máy 076839 có trị giá 6.000.000 đồng. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và bị hại không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận nêu trên của Hội đồng định giá tài sản.

Bản cáo trạng số 45/CT-VKSTPHT ngày 01/8/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Tĩnh truy tố bị cáo Bùi Đình H về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố như Bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt Bùi Đình H từ 36 đến 42 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 02/6/2018.

Tại phiên tòa, bị cáo Bùi Đình H khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên và không có ý kiến tranh luận gì với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát. Trong lời nói sau cùng, bị cáo trình bày bị cáo thực hiện hành vi phạm tội do bột phát, sau khi nhận thức được sai trái đã đến đầu thú tại Công an thành phố Hà Tĩnh, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranhtụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Hà Tĩnh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Tĩnh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

 [2] Về hành vi của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo khai nhận: Vào khoảng 08 giờ ngày31/05/2018, khi đi qua nhà số 08 ngõ 26 đường N thuộc tổ 2, phường P, thành phố Htỉnh Hà Tĩnh, Bùi Đình H phát hiện thấy chiếc xe mô tô cắm sẵn chìa khóa không có người trông coi nên đã lén lút chiếm đoạt chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha màu xanh,biển kiểm soát: 38H3- 4779 trị giá 6.000.000 đồng của chị Đinh Thị L để sử dụng. Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, phạm tội với lỗi cố ý. Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo phạm tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại điều 173 Bộ luật Hình sự. Bị cáo đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý nên phải chịu tình tiết định khung “tái phạm nguy hiểm” quy định tại điểm g khoản 2 điều 173 Bộ luật Hình sự. Viện kiểm sát nhận dân thành phố Hà Tĩnh truy tố bị cáo Bùi Đình H về tội danh và điều luật nêu trên là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

 [3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo hộ, gây mất trật tự trị an trên địa bàn. Bị cáo đã nhiều lần bị xử phạt tù về tội trộm cắp tài sản song không lấy đó làm bài học mà lại tiếp tục phạm tội. Do đó, cần xử phạt mức án thật nghiêm, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung. Tuy nhiên, cần giảm nhẹ cho bị cáo một phần vì bị cáo không có tình tiết tăng nặng và được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “người phạm tội thành khẩn khai báo”, đầu thú quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

 [4] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo nghề nghiệp và thu nhập không ổn định, không có tài sản riêng nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 điều 173 Bộ luật Hình sự.

 [5] Xét luận tội của Kiểm sát viên là có căn cứ, đúng pháp luật, về mức án đề nghị là thỏa đáng.

 [6] Về vật chứng: Cơ quan điều tra đã thu giữ 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệuYamaha màu xanh, biển kiểm soát: 38H3- 4779 và trả lại cho chị L là phù hợp.

 [7] Về dân sự: Bị hại chị Đinh Thị L đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bồi thường gì thêm nên miễn xét.

 [8] Đối với chị Phạm Thị Thiều A đã cho Bùi Đình H gửi chiếc xe mô tô và anh Phạm Ngọc B đã mượn chiếc xe mô tô để sử dụng nhưng không biết đó là tài sản do phạm tội mà có nên không xử lý là phù hợp.

[9] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự:

Tuyên bố: Bùi Đình H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt Bùi Đình H 36 (ba mươi sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam 02/6/2018.

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội buộc bị cáo Bùi Đình H phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

266
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 45/2018/HS-ST ngày 29/08/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:45/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hà Tĩnh - Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;