Bản án 43/2021/HNGĐ-ST ngày 25/05/2021 về xin ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 43/2021/HNGĐ-ST NGÀY 25/05/2021 VỀ XIN LY HÔN 

Ngày 25 tháng 5 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình sơ thẩm thụ lý số: 51/2021/TLST- HNGĐ ngày 21 tháng 01 năm 2021 về việc ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 36/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 06 tháng 5 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Hồ Mộng T, sinh năm 1995;

Địa chỉ: ấp A, xã B, huyện C, tỉnh Bến Tre.

2. Bị đơn: Anh Thạch Q, sinh năm 1996;

Tạm trú: nhà trọ P, ấp M, xã N, huyện D, tỉnh Bến Tre. Chỗ ở hiện nay: ấp M, xã N, huyện D, tỉnh Bến Tre.

(Hai bên có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, các biên bản làm việc trong quá trình tố tụng tại Tòa án và tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn chị Hồ Mộng T trình bày:

Chị và anh Thạch Q cưới nhau vào năm 2018 trên tinh thần tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã B, huyện C, tỉnh Bến Tre. Sau khi cưới anh, chị chung sống có hạnh phúc. Nhưng về sau vợ chồng ngày càng phát sinh mâu thuẩn nguyên nhân do bất đồng quan điểm trong cuộc sống vợ chồng anh Q không lo làm ăn lại còn quan hệ với những người phụ nữ khác ở bên ngoài. Nên chị nhận thấy hạnh phúc và tình thương giữa vợ chồng không còn, nên chị yêu cầu xin được ly hôn với anh Thạch Q.

Về con chung: có 01 con chung tên Thạch Ngọc Như Y, sinh ngày 18/5/2019, hiện nay con đang sống chung với chị, sau khi ly hôn chị yêu cầu được nuôi con không yêu cầu anh Q cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: không có nên không yêu cầu giải quyết.

Trong biên bản lấy lời khai, biên bản họp kiểm tra việc giao nhận công khai chứng cứ và hòa giải ngày 09/3/2021 và ngày 05/5/2021 anh Thạch Q bị đơn trình bày:

Anh và chị T do quen biết, tự nguyện kết hôn và có đăng ký kết hôn tại UBND xã B, huyện C, tỉnh Bến Tre, sau khi kết hôn vợ chồng có hạnh phúc, trong cuộc sống có bất đồng quan điểm nhưng không có vấn đề gì lớn, không mâu thuẩn gì trầm trọng đến mức phải ly hôn, anh thừa nhận có quan hệ với phụ nữ ở bên ngoài nhưng anh còn thương vợ con, anh mong muốn vợ chồng đoàn tụ để cùng nuôi dạy con. Từ những lý do nêu trên về hôn nhân anh không đồng ý ly hôn.

Về con chung: có 01 con chung tên Thạch Ngọc Như Y, sinh ngày 18/5/2019 hiện con đang sống với chị T, do anh không đồng ý ly hôn nên về ai là người nuôi con, anh chưa đặt ra.

Tại phiên tòa sơ thẩm Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành phát biểu ý kiến: Về tố tụng: trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, thư ký và người tham gia tố tụng đã tuân thủ theo quy định của pháp luật.

Về nội dung:

Căn cứ vào các Điều 51,56, 58, 81, 82,83, 84 Luật Hông nhân và gia đình và Nghị Quyết số 326/2016/ UBTVQH 14 ngày 30/12/2016.

Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Hồ Mộng T và anh Thạch Q.

Chị T và anh Q được ly hôn.

Về con chung: Chị T được trực tiếp nuôi con chung, ghi nhận chị T không yêu cầu anh Q cấp dưỡng nuôi con.

Anh Q không trực tiếp nuôi con có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng con chung. Chị T và anh Q có quyền yêu cầu thay đổi việc nuôi con và cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: không có Án phí chị T nộp theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên Tòa và căn cứ vào lời trình bày của nguyên đơn tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Veà toá tuïng:

Chị T có đơn yêu cầu xin được ly hôn với anh Q. Bị đơn anh Q hiện đang cư trú tại xã Phú An Hòa, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre và có nơi làm việc tại xã Phú An Hòa, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre. Căn cứ vào Điều 35 và Điều 39 BLTTDS nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre.

[2] Về hôn nhân: Chị T và anh Q chung sống với nhau vào năm 2018 trên tinh thần tự nguyện có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã B, huyện C, tỉnh Bến Tre là phù hợp với quy định của pháp luật nên được công nhận là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống giữa chị T và anh Q lúc đầu có hạnh phúc, nhưng sau đó xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân theo chị T trình bày mâu thuẩn trong đời sống vợ chồng ngày càng phát sinh do vợ chồng thường bất đồng quan điểm, anh Q không làm ăn lo cho vợ con lại còn quan hệ với người phụ nữ khác ở bên ngoài chị đã bắt gặp. Nay chị T nhận thấy tình thương giữa chị và anh Q không còn nên chị yêu cầu được ly hôn với anh Q.

Tòa án tiến hành xác minh ông Hồ Văn X (ông X là cha ruột của chị T) ông X có lời trình bày: Năm 2018 T và Q thành vợ chồng thì 02 con của ông thuê nhà trọ ở và đi làm khu Công nghiệp xã Giao Long, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre. Quá trình chung sống giữa T và Q ông không nắm rõ. Đến cuối năm 2020 T đã về nhà của ông sinh sống, ông có nghe T kể lại là bị Q đánh và cũng từ đó cho đến nay giữa T và Q đã sống ly thân với nhau. Phần T sáng vẫn đi làm ở khu công nghiệp, chiều về nhà ông mâu thuẩn giữa T và Q hai bên xui gia chưa gặp nhau để trao đổi gì cả, cho nên về việc sống hay ly hôn tùy T và Q quyết định ông không có ý kiến.

Như vậy qua xác minh và làm việc với người thân của chị T xét thấy tình trạng hôn nhân của chị T và anh Q có mâu thuẩn nhưng không lớn. Tuy nhiên về phần chị T vẫn cương quyết xin được ly hôn, hiện chị đang sống tại nhà cha mẹ ruột và cũng trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án có động viên và tạo cơ hội là kéo dài thời gian giải quyết nhưng giữa chị T và anh Q vẫn không thể hàn gắn để đoàn tụ chung sống trở lại được, chứng tỏ rằng tình trạng hôn nhân giữa chị T và anh Q không thể tồn tại, bởi tình thương giữa chị T đối với anh Q không còn, tuy anh Q cho rằng còn thương chị T không đồng ý ly hôn nhưng xét thấy tình thương không còn, mục đích hôn nhân của không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài. Vì vậy nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị T là hoàn toàn phù hợp với Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình quy định.

[3] Về con chung: có 01 con chung tên Thạch Ngọc Như Y, sinh ngày 18/5/2019. Hiện cháu Ý đang sống với chị T, chị T yêu cầu được nuôi con sau ly hôn. Phần anh Q cho rằng do anh không đồng ý ly hôn, nên việc ai nuôi con anh không có ý kiến. Theo Điều 81 luật hôn nhân và gia đình quy định “ con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện trực tiếp trông nom, chăm sóc nuôi dưỡng, giáo dục hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con”. Từ viện dẫn của điều luật nêu trên, nên giao cháu Ý cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp. Chị T không yêu cầu anh Q cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

Vì quyền và lợi ích của con, một hoặc cả hai bên được quyền yêu cầu thay đổi việc nuôi con và cấp dưỡng nuôi con sau này.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Chị T và anh Q cùng khai không có, nên không xét đến.

[5] Về án phí: Chị T phải chịu án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng.

[6] Từ những nhận định nêu trên, xét đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành là có căn cứ nên được chấp nhận toàn bộ.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điều 56, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Cho chị Hồ Mộng T ly hôn với anh Thạch Q.

2. Về con chung: Giao con chung là Thạch Ngọc Như Y, sinh ngày 18/5/2019 cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng; ghi nhận việc chị T không yêu cầu anh Q cấp dưỡng nuôi con.

Anh Q có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con mà không ai được cản trở. Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định của pháp luật, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con cũng như cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Chị T và anh Q khai không có nên không xem xét.

4. Về án phí: Chị T phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng). Số tiền án phí của chị T được trừ vào biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0004878 ngày 13/01/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện D, tỉnh Bến Tre. Chị T đã nộp đủ án phí Hôn nhân và gia đình.

Hai bên đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

188
  • Tên bản án:
    Bản án 43/2021/HNGĐ-ST ngày 25/05/2021 về xin ly hôn
  • Số hiệu:
    43/2021/HNGĐ-ST
  • Cấp xét xử:
    Sơ thẩm
  • Lĩnh vực:
    Hôn Nhân Gia Đình
  • Ngày ban hành:
    25/05/2021
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 43/2021/HNGĐ-ST ngày 25/05/2021 về xin ly hôn

Số hiệu:43/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;