Bản án 30/2021/HS-ST ngày 11/06/2021 về tội đánh bạc

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN YÊN, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 30/2021/HS-ST NGÀY 11/06/2021 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 11 tháng 6 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân Huyện Tân Yên xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hình sự sơ thẩm thụ lý số 19/2021/TLST- HS ngày 25 tháng 3 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 65/2021/QĐXXST-HS ngày 01/4/2021; Quyết định hoãn phiên tòa số 40/2021/HSST-QĐ ngày 28/4/2021 và Thông báo thay đổi thời gian tiếp tục phiên tòa số 28/2021/TB-TA ngày 17/5/2021 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Ngọc T, sinh năm 1954; Giới tính: Nam; Tên gọi khác: Không; Nơi sinh và nơi cư trú: Thôn Tân Phú, xã Ngọc Châu, Huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm ruộng;

Chức vụ: Không; Trình độ học vấn: 4/10; Bố đẻ: Nguyễn Ngọc Thông (đã chết); Mẹ đẻ: Nguyễn Thị Năm (đã chết); Vợ: Nguyễn Thị Hiển, sinh năm 1959; Con: Bị cáo có 02 (con lớn sinh năm 1979; con nhỏ sinh năm 1989); Gia đình có 09 anh, chị em, bị cáo là con thứ 8; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 31/12/2020 đến ngày 03/01/2021 được áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú.

Hiện tại ngoại (có mặt tại phiên tòa).

2. Tạ Xuân L, sinh năm 1982; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Nơi sinh và nơi cư trú: Thôn Nội, xã Ngọc Thiện, Huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên chúa; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Chức vụ: Không; Trình độ học vấn: 8/12; Bố đẻ: Tạ Đức Hoành, sinh năm 1947; Mẹ đẻ: Chu Thị Cúc, sinh năm 1952; Vợ: Thân Thị Thư, sinh năm 1984; Con: Có 03 con (con lớn sinh năm 2006, con nhỏ sinh năm 2013); Gia đình có 08 anh, em ruột, bị cáo là con thứ 6; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 120 ngày 18/8/2017, Tạ Xuân L bị Công an Huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang, xử phạt hành chính về hành vi “Xâm hại sức khỏe của người khác và ném gạch đá vào nhà ở của người khác”. Tổng mức phạt 3.500.000 đồng; Bị cáo không bị tạm giữ, tạm giam bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. Hiện tại ngoại (có mặt tại phiên tòa).

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

- Anh Nguyễn Văn C, sinh năm 1980 (vắng mặt) Nơi cư trú: Thôn Tân Phú, xã Ngọc Châu, Huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang.

- Ông Nguyễn Ngọc B, sinh năm 1955 (có mặt) Nơi cư trú: Thôn Ngọc Lợi, xã Ngọc Châu, Huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang.

- Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1986 ( vắng mặt) Nơi cư trú: Thôn Tân Phú, xã Ngọc Châu, Huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang.

* Người làm chứng: Anh Nguyễn Đức H, sinh năm 2004 (vắng mặt) Nơi cư trú: Thôn Chè, xã Ngọc Thiện, Huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17 giờ 00 phút ngày 30/12/2020, bị cáo Nguyễn Ngọc T sử dụng điện thoại di động Nokia 106 màu đen, có số Seri1: 355755109658971; được lắp sim số 0966781951 để nhận ghi các số lô, đề cho khách thì có Nguyễn Hữu N - sinh năm 2000, (Nam khai trú tại thôn Mỏ Thổ, xã Minh Đức, Huyện Việt Yên) và anh Nguyễn Đức H - sinh năm 2004 ở thôn Chè, xã Ngọc Thiện, Huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang đến gặp T; Nam bảo T “Cho cháu ghi mấy con lô”, T đồng ý và lấy một tờ giấy trắng hình chữ nhật được cắt ra từ tờ giấy A4 để ghi các cặp số lô, số đề Nam mua làm căn cứ trả thưởng (cáp con). Nam bảo T ghi các cặp số lô gồm: 92, 93, 96, 98 mỗi cặp lô số tương ứng với 10 điểm; các cặp số đề gồm: 25, 52, 13, 31, mỗi cặp số đề tương ứng với số tiền 50.000 đồng. Tổng số tiền Nam mua các cặp số lô, số đề của T là 1.120.000 đồng.

Các hình thức ghi số lô, số đề được quy định như sau: Hình thức chơi “đặc biệt” có nghĩa là dự đoán 02 số cuối của giải Đặc biệt kết quả xổ số Miền Bắc, nếu 02 số dự đoán trùng với 02 số cuối của giải “Đặc biệt” kết quả xổ số Miền Bắc thì trúng thưởng và tỷ lệ trả thưởng sẽ là 1 x 80 lần. Hình thức chơi “Nhất to” có nghĩa là dự đoán 02 số cuối của “giải nhất” kết quả xổ số Miền Bắc, nếu 02 số dự đoán trùng với 02 số cuối của “giải nhất” kết quả xổ số Miền Bắc thì trúng thưởng và tỷ lệ trả thưởng sẽ là 1 x 80 lần. Hình thức chơi “Hai cửa” có nghĩa là dự đoán 02 số cuối của cả hai giải “Đặc biệt” và “giải nhất” của kết quả xổ số Miền Bắc, nếu 02 số dự đoán trùng với 02 số cuối của giải “Đặc biệt” hoặc “giải nhất” hoặc cả 02 giải là trúng thưởng và mức trả thưởng sẽ là 1 x 80 lần. Hình thức chơi “Lô điểm” có nghĩa là dự đoán 02 số cuối của tất cả các giải của kết quả xổ số Miền Bắc, nếu 02 số cuối dự đoán xuất hiện ở các giải của Kết quả xổ số Miền Bắc (27 giải) là trúng thưởng, mức trả thưởng được tính như sau, 1 điểm lô tương ứng với 23.000 đồng, nếu trúng sẽ được trả thưởng gấp 70 lần. Hình thức chơi “Lô xiên 3” có nghĩa là dự đoán 03 cặp số, mỗi cặp số gồm 02 chữ số, nếu cả 03 cặp số dự đoán đều xuất hiện ở các giải của Kết quả xổ số Miền Bắc (27 giải) là trúng thưởng, mức trả thưởng được tính là 1.000 đồng đánh “Lô xiên 3” trúng sẽ được lô được trả thưởng gấp 40 lần.

Sau khi T ghi các cặp số lô, số đề xong, Nam lấy tiền ra trả cho T 1.120.000 đồng , T cầm tiền và giữ lại tờ cáp vừa ghi làm căn cứ trả thưởng. Đúng lúc này, L lượng Công an Huyện Tân Yên phát hiện bắt quả tang đối với T và Nguyễn Văn Nam. Vật chứng thu giữ khi bắt quả tang gồm:

* Thu tại mặt bàn uống nước nhà T gồm: 01 tờ giấy hình chữ nhật được cắt ra từ tờ giấy A4, cả hai mặt có các chữ, số và ký tự viết tay bằng mực mầu xanh; Số tiền 1.480.000 đồng; Số tiền 4.540.000 đồng; 01 bút viết vỏ màu xanh, trên nắp bút ghi GP – 777; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, có số Serri1: 355755109658971; 01 kéo có tay cầm bằng nhựa màu đỏ; 01 tờ giấy hình chữ nhật, một mặt trắng, một mặt ghi “Ngày 30/12/20/20” và các chữ, số, ký tự mực màu đen, cùng 01 tờ giấy kẻ ngang hình chữ nhật, cả hai mặt có chữ, số, ký tự viết tay bằng mực màu xanh. Thu tại túi áo khoác ngoài bên trái của Nguyễn Ngọc T.

Cùng ngày, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Huyện Tân Yên tiến hành khám xét tại chỗ ở đối với Nguyễn Ngọc T. Kết quả khám xét:

- Thu giữ tại khu vực bàn uống nước ở cửa nhà Nguyễn Ngọc T trong thùng đựng rác có 01 tờ giấy hình chữ nhật (bìa vở giấy Hải Tiến một mặt có ghi “TRÍCH ĐIỀU LỆ TRƯỜNG THPT”), một mặt có ghi các chữ, số, ký tự viết tay bằng mực màu xanh và mực màu đỏ. Tờ giấy bị cháy tạo thành lỗ ở giữa tờ giấy.

- Thu giữ tại gầm bàn uống nước trong phòng khách nhà Nguyễn Ngọc T có 08 tờ giấy hình chữ nhật màu trắng (cả hai mặt).

- Thu giữ trên đỉnh chiếc quạt để tại góc cửa bên phải vào phòng ngủ của Nguyễn Ngọc T 01 quyển sổ bìa sổ có ghi “GIÁO ÁN” màu đỏ, kiểm tra trong quyển sổ có ghi nhiều số, ký tự bằng mực màu xanh, màu đen.

Tại bản kết luận số 01/KL-KTHS ngày 02/01/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang kết luận:

1. Chữ viết, chữ số trên các tài liệu C giám định ký hiệu A1, A2 so chữ viết, chữ số của Nguyễn Ngọc T trên các tài liệu mẫu ký hiệu từ M1 đến M6 là do cùng một người viết ra.

2. Chữ viết, chữ số trên các tài liệu C giám định ký hiệu A3 so chữ viết, chữ số của Nguyễn Ngọc B trên các tài liệu mẫu ký hiệu từ M7 đến M12 là do cùng một người viết ra.

Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã xác định được Nguyễn Ngọc T đánh bạc bằng hình thức ghi số đề trong các ngày cụ thể như sau:

Tại 01 tờ giấy kẻ ngang hình chữ nhật, cả hai mặt có chữ, số, ký tự viết tay bằng mực màu xanh thể hiện ngày 29/12/2020 Nguyễn Ngọc T đánh bạc bị phát hiện sau khi có kết quả mở thưởng nên theo quy định của Nghị quyết số 01/2010/NQ-HĐTP ngày 22/10/2010 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao thì số tiền đánh bạc bằng hình thức ghi số đề của Nguyễn Ngọc T trong ngày 29/12/2020 là:

- Hình thức Đặc biệt: Số tiền T ghi được = 1.030.000 đồng. Kết quả sổ xố Miền Bắc ngày 29/12/2020 trong các số khách ghi đã trúng thưởng có số 11 x 30.000 đồng = 2.400.000 đồng. Như vậy, số tiền T ghi ở hình thức Đặc biệt là 1.030.000 + 2.400.000 = 3.430.000 đồng.

- Hình thức Nhất to: Số tiền T ghi được = 225.000 đồng. Kết quả sổ xố Miền Bắc ngày 29/12/2020, khách mua cặp số 28 trúng thưởng 5000 đồng, tương ứng là 5000 đồng x 80.000 đồng = 400.000 đồng. Như vậy, số tiền T ghi ở hình thức Nhất to là 225.000 đồng + 400.000 đồng = 625.000 đồng.

- Hình thức Hai cửa: Số tiền T ghi được là 690.000 đồng (cột thứ 4) và 410.000 đồng (cột thứ 5) = 1.100.000 đồng. Kết quả sổ xố Miền Bắc ngày 29/12/2020, khách ghi trúng thưởng Cặp số 11 trong (dây 16 và Kép) với số tiền 25.000 đồng x 80.000 đồng = 2.000.000 đồng và số 11 ở cột thứ 5 với số tiền 5.000 đồng x 80.000 đồng = 400.000 đồng. Tổng số tiền trúng là 2.400.000 đồng. Như vậy, số tiền T ghi ở hình thức hai cửa là 1.100.000 đồng + 2.400.000 đồng = 3.500.000 đồng.

- Hình thức chơi Lô xiên = 70.000đồng;

- Hình thức Lô điểm: số tiền T ghi được 300 điểm Lô x 23.000 đồng/1 điểm = 6.900.000 đồng. Kết quả sổ xố Miền Bắc ngày 29/12/2020, khách ghi đã trúng thưởng các cặp số lô: 17 = 5 điểm; 00 = 5 điểm và 41 = 60 điểm. Tổng số tiền trúng = 70 điểm x 80.000 đồng = 5.600.000 đồng. Như vậy, số tiền T ghi ở hình thức Lô điểm là 6.900.000 đồng + 5.600.000 đồng =12.500.000 đồng.

Cộng tổng số tiền Nguyễn Ngọc T đánh bạc ở các hình thức trong ngày 29/12/2020 gồm: 3.430.000 đồng + 625.000 đồng + 3.500.000 đồng + 70.000đồng + 12.500.000 đồng = 20.125.000 đồng.

Tại tờ 01 tờ giấy hình chữ nhật được cắt ra từ tờ giấy A4, cả hai mặt có các chữ, số và ký tự viết tay bằng mực mầu xanh và 01 tờ giấy hình chữ nhật, một mặt trắng, một mặt ghi “Ngày 30/12/20/20” và các chữ, số, ký tự mực màu đen. Thu giữ khi bắt quả tang thể hiện T đánh bạc trong ngày 30/12/2020 bị phát hiện trước khi có kết quả mở thưởng xác định T ghi số lô, số đề với tổng số tiền = 1.590.000 đồng, trong đó: tờ giấy hình chữ nhật được cắt ra từ tờ giấy A4 = 1.450.000 đồng và tờ giấy hình chữ nhật, một mặt trắng, một mặt ghi “Ngày 30/12/20/20” = 140.000 đồng.

Quá trình điều tra, bị cáo Nguyễn Ngọc T khai nhận trong ngày 29/12/2020 đã ghi các số lô, số đề cho Tạ Xuân L - sinh năm 1982 ở thôn Nội, xã Ngọc Thiện, Huyện Tân Yên hai số Lô điểm là 14, 41 mỗi số 50 điểm. Kết quả xổ số kiến thiết Miền Bắc ngày 29/12/2020 xác định số 41 trúng thưởng. Số tiền trúng thưởng của L, bị cáo T chưa thanh toán.

Đến ngày 31/12/2020, Tạ Xuân L đến Cơ quan điều tra đầu thú khai nhận hành vi dùng điện thoại di động gọi điện cho bị can Nguyễn Ngọc T ghi số đề và so sánh với kết quả xổ số Miền Bắc trong ngày 29/12/2020 đã trúng thưởng. Tạ Xuân L tự nguyện giao nộp cho Cơ quan điều tra: 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A3S màu đỏ, có số IMEI1: 867791049148253; số IMEI2:867791049148246 mà L đã dùng để điện thoại đánh bạc với Nguyễn Ngọc T.

Cơ quan điều tra kiểm tra chiếc điện thoại di động Nokia, thu giữ của Nguyễn Ngọc T khi bắt quả tang và chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A3S màu đỏ, có số IMEI1: 867791049148253; số IMEI2: 867791049148246 của Tạ Xuân L. Kết quả kiểm tra không có nội dung liên quan nhắn trao đổi mua, bán các số lô, số đề giữa T và các đối tượng Cơ quan điều tra đã chứng minh, ngày 29/12/2020 Tạ Xuân L đánh bạc dưới hình thức ghi số Lô điểm gồm của Nguyễn Ngọc T hai số là 14, 41 mỗi số 50 điểm, tổng số là 100 điểm x 23.000 đồng/1 điểm = 2.300.000đồng. Kết quả sổ số kiến thiết Miền Bắc mở thưởng ngày 29/12/2020, L so sánh trúng số lô 41- 50 điểm x 80.000 đồng = 4.000.000 đồng. Như vậy, hành vi đánh bạc của Tạ Xuân L bị phát hiện sau khi có kết quả mở thưởng nên theo quy định của Nghị quyết số 01/2010/NQ-HĐTP ngày 22/10/2010 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao thì số tiền đánh bạc bằng hình thức ghi số đề của Tạ Xuân L trong ngày 29/12/2020 là 2.300.000đồng + số tiền trúng là 4.000.000đồng = 6.300.000đồng.

Ngoài ra, bị cáo Nguyễn Ngọc T còn khai ra các đối tượng tham gia đánh bạc dưới hình thức ghi số lô, số đề của T và Cơ quan điều tra đã điều tra làm rõ các đối tượng đã thực hiện hành vi đánh bạc với bị cáo T gồm: Nguyễn Văn C - sinh năm 1980 ở thôn Tân Phú, xã Ngọc Châu, Huyện Tân Yên mua số đề của Nguyễn Ngọc T ngày 29/12/2020 với tổng số tiền 110.000 đồng; Nguyễn Ngọc B - sinh năm 1955, trú tại thôn Ngọc Lợi, xã Ngọc Châu, Huyện Tân Yên mua số đề đặc biệt của Nguyễn Ngọc T ngày 30/12/2020 là 140.000 đồng; Nguyễn Văn T - sinh năm 1986, trú tại thôn Tân Phú, xã Ngọc Châu, Huyện Tân Yên mua số đề của Nguyễn Ngọc T 30/12/2020 là 330.000 đồng. So sánh kết quả xổ số Miền Bắc xác định các đối tượng trên đều không trúng thưởng.

Tại bản cáo trạng số 18/CT-VKS ngày 24/3/2021 của Viện kiểm sát nhân dân Huyện Tân Yên truy tố các bị cáo Nguyễn Ngọc T và Tạ Xuân L về tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật hình sự.

* Tại phiên tòa hôm nay, Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo T, L và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Ngọc T và Tạ Xuân L phạm tội “Đánh bạc” Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo T từ 14 tháng tù đến 16 tháng tù. Nhưng cho bị cáo được hưởng án treo. Thời gian thử thách là 28 tháng đến 32 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Giao bị cáo T cho UBanD xã Ngọc Châu, Huyện Tân Yên giám sát giáo dục trong thời gian thử thách.

Miễn phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo Nguyễn Ngọc T.

- Xử phạt bị cáo Tạ Xuân L 08 tháng tù đến 10 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đi thi hành án.

Phạt bổ sung bằng tiền 10.000.000 đồng (mười triệu đồng) đối với bị cáo Tạ Xuân L.

Về vật chứng, án phí đề nghị xử lý theo quy định của pháp luật.

* Tại phiên toà hôm nay các bị cáo T, bị cáo L đã khai nhận rõ hành vi của mình như cáo trạng đã nêu là đúng và nhận thức được việc làm của mình là sai, ăn năn hối cải xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt thấp nhất cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Huyện Tân Yên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Huyện Tân Yên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo, người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về sự vắng mặt của những người tham gia tố tụng: Tại phiên tòa Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh C, anh T; Người làm chứng anh H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa nhưng vắng mặt. Tuy nhiên, tại giai đoạn điều tra và truy tố đã có lời khai nên sự vắng mặt của họ không ảnh hưởng đến việc giải quyết khách quan, toàn diện vụ án. Do vậy, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt những người trên là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 292; Điều 293 của Bộ luật tố tụng hình sự.

[3] Về tội danh: Lời khai của các bị cáo T, L tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ và kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang, Hội đồng xét xử xét thấy đã có đủ cơ sở kết luận:

Ngày 29/12/220, bị cáo Nguyễn Ngọc T đã thực hiện hành vi đánh bạc dưới hình thức ghi số lô, số đề cho các đối tượng. Số tiền đánh bạc xác định là 20.125.000 đồng. Ngày 29/12/220, bị cáo Tạ Xuân L sử dụng điện thoại di động gọi điện ghi số lô của bị cáo Nguyễn Ngọc T. Số tiền đánh bạc trong ngày 29/12/2020 xác định là 6.300.000 đồng.

Khi thực hiện hành vi phạm tội, các bị cáo đã đủ tuổi và đủ năng L chịu trách nhiệm hình sự, bị cáo đánh bạc dưới hình thức "ghi số lô, số đề". Hành vi của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật hình sự. Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân Huyện Tân Yên truy tố các bị cáo theo tội danh và điều khoản trên là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. [4] Về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây mất trật tự trị an tại địa phương, gây hoang mang lo lắng trong nội bộ quần chúng nhân dân, từ tệ nạn cờ bạc có thể làm nẩy sinh nhiều loại tội phạm khác, đây cũng chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến tan vỡ hạnh phúc của nhiều gia đình.Vì vậy, vụ án C phải được xử lý nghiêm tương xứng với tính chất và mức độ hành vi phạm tội của bị cáo để nhằm giáo dục riêng và phòng ngừa chung đối với loại tội phạm này.

[5] Về nhân thân: Bị cáo T có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự. Bị cáo L có nhân thân xấu năm 2017 đã bị Công an Huyện Tân Yên xử phạt hành chính về hành vi “ Xâm hại sức khỏe của người khác và ném gạch đấ vào nhà ở của người khác”.

[6] Xét về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thấy: Tại cơ quan điều tra, truy tố và tại phiên toà hôm nay các bị cáo T, L có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải. Các bị cáo nhận thức việc làm của mình là sai, các bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Bị cáo L sau khi phạm tội đã đến cơ quan điều tra đầu thú, bị cáo T tham gia quân đội nên các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự, C xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo khi quyết định hình phạt.

[7] Xét các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo: Các bị cáo T, L không có.

Từ những phân tích trên, đánh giá về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo và nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Hội đồng xét xử thấy:

Bị cáo T là người trên 60 tuổi, có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng, ngoài lần phạm tội này không còn lần phạm tội nào khác, bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên Hội đồng xét xử xét thấy cho bị cáo hưởng án treo cũng đủ giáo dục bị cáo trở thành người tốt và cũng thể hiện sự khoan hồng của pháp luật, phù hợp với quy định tại Điều 2 Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật hình sự về án treo.

Bị cáo L có nhân thân xấu năm 2017 đã từng bị xử phạt hành chính về hành vi Xâm hại sức khỏe của người khác và ném gạch đá vào nhà ở của người khác nhưng không lấy đó làm bài học tu dưỡng lại tiếp tục con đường phạm tội. Nên thấy C buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù có thời hạn một thời gian để cách ly bị cáo với xã hội, mới có tác dụng giáo dục bị cáo trở thành người công dân có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật.

Ngoài hình phạt chính, Hội đồng xét xử thấy đáng lẽ C phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo T nhưng xét thấy bị cáo là người cao tuổi nên C miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo. Đối với bị cáo L có nghề nghiệp làm ruộng, theo biên bản xác minh tại địa phương bị cáo có thu nhập. Như vậy, C áp dụng khoản 3 Điều 321 của Bộ luật hình sự, phạt tiền bổ sung đối với bị cáo L để sung ngân sách Nhà nước.

[8] Về vật chứng của vụ án:

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 106, màu đen có số Serri1: 355755109658971, thu giữ tại mặt bàn uống nước nhà bị cáo Nguyễn Ngọc T là phương tiện liên lạc của bị cáo T đã sử dụng vào việc nhận các số lô, số đề của các đối tượng. Nên C tịch thu sung ngân sách Nhà nước.

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A3S màu đỏ, có số IMEI1: 867791049148253; số IMEI2:867791049148246. Thu giữ của bị cáo Tạ Xuân L, quá trình điều tra xác định bị cáo L đã sử dụng vào việc liên lạc mua số lô, số đề của bị cáo Nguyễn Ngọc T. Nên C tịch thu sung ngân sách Nhà nước.

- 01 tờ giấy hình chữ nhật (bìa vở giấy Hải Tiến một mặt có ghi “TRÍCH ĐIỀU LỆ TRƯỜNG THPT”), một mặt có ghi các chữ, số, ký tự viết tay bằng mực màu xanh và mực màu đỏ, tờ giấy bị cháy tạo thành lỗ ở giữa tờ giấy. Thu giữ tại khu vực bàn uống nước ở cửa nhà bị cáo T trong thùng đựng rác là tờ ghi nháp các con số và tính toán cộng tiền không liên quan đến việc đánh bạc. Tại phiên tòa bị cáo T không đề nghị xin lại, Hội đồng xét xử xét thấy tờ giấy trên không có giá trị sử dụng nên C tịch thu tiêu hủy.

- 08 tờ giấy hình chữ nhật màu trắng cả hai mặt là công cụ bị cáo T sử dụng để ghi cáp cho khách khi đến mua số lô, số đề; 01 quyển sổ bìa sổ có ghi “GIÁO ÁN” màu đỏ, kiểm tra trong quyển sổ có ghi nhiều số, ký tự bằng mực màu xanh, màu đen là quyển sổ bị cáo T ghi theo dõi kết quả sổ số; 01 bút viết vỏ màu xanh, trên nắp bút ghi GP - 777, thu giữ tại mặt bàn uống nước nhà bị cáo T là công cụ bị cáo T sử dụng ghi các số lô, số đề cho các đối tượng; 01 kéo có tay cầm bằng nhựa màu đỏ, thu tại mặt bàn uống nước nhà bị cáo T là công cụ bị cáo Nguyễn Ngọc T sử dụng vào việc cắt tờ cáp đề. Nên Hội đồng xét xử C tịch thu tiêu hủy.

- Số tiền 1.480.000 đồng, thu giữ tại mặt bàn uống nước nhà bị cáo T là tiền bị cáo có được từ hoạt động ghi số lô, số đề cho các đối tượng. Nên Hội đồng xét xử C tịch thu sung quỹ Nhà nước.

- Số tiền 4.540.000 đồng. Thu giữ trên tay phải bị cáo T là tiền cá nhân của bị cáo, không liên quan đến hành vi đánh bạc. Nên Hội đồng xét xử xét thấy C trả lại cho bị cáo T.

* Đối với hành vi đánh bạc (bán số lô, số đề) của bị cáo bị cáo T trong ngày 30/12/2020 bị bắt quả tang, do chưa đủ định lượng để truy cứu trách nhiệm hình sự (dưới 5.000.000 đồng). Ngày 03/3/2021, Trưởng công an Huyện Tân Yên đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền đối với bị cáo T. Hội đồng xét xử xét thấy việc xử phạt vi phạm hành trên đối với bị cáo T là đúng quy định pháp luật. Nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

* Đối với hành vi đánh bạc (mua số lô, số đề) của anh Nguyễn Văn C trong ngày 29/12/2020; anh Nguyễn Văn T, anh Nguyễn Ngọc B trong ngày 30/12/2020, do số tiền đánh bạc của các anh chưa đủ định lượng để truy cứu trách nhiệm hình sự (dưới 5.000.000 đồng). Ngày 03/3/2021, Trưởng công an Huyện Tân Yên đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền đối với anh Nguyễn Văn C, anh Nguyễn Văn T và anh Nguyễn Ngọc B.

* Đối với anh Nguyễn Hữu Nam, sinh năm 2000, trú tại thôn Mỏ Thổ, xã Minh Đức, Huyện Việt Yên (theo Nam khai nhận). Sau khi làm việc, lợi dụng sơ hở đối tượng Nam đã bỏ trốn. Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh tại xã Minh Đức, Huyện Việt Yên thì chưa xác định được đối tượng Nam có địa chỉ trên. Ngày 03/3/2021, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Huyện Tân Yên đã tách phần tài liệu liên quan đến đối tượng Nguyễn Hữu N để tiếp tục các minh, khi có căn cứ sẽ xử lý theo quy định của pháp luật. Nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

* Về đối tượng nhận cáp đề của bị cáo T là người phụ nữ có tên Tuyến khoảng 40 tuổi, bị cáo T khai có thời điểm Tuyến sinh sống ở xã Song Vân, Huyện Tân Yên, sau đó cHển xuống thành phố Bắc Giang, nhưng T không biết địa chỉ cụ thể. Hình thức giao dịch: Hàng ngày, T điện thoại trực tiếp cho Tuyến để đọc các số lô, số đề khách đã mua cho Tuyến từ 3 đến 5 phút. Kết quả kiểm tra điện thoại của T thì không phát hiện thấy có cuộc gọi nào từ 3 đến 5 phút như T khai. Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh tại xã Song Vân, Huyện Tân Yên nhưng không có ai tên là Tuyến như T khai. Do không xác định được đối tượng Tuyến là ai, ở đâu nên Cơ quan điều tra quyết định tách phần tài liệu liên quan đến đối tượng Tuyến để tiếp tục xác minh xử lý sau. Nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[9] Về án phí:

Bị cáo T là người cao tuổi nên được miễn án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ Ban thường vụ Quốc hội.

Bị cáo L phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ Ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Toà án.

[10] Về quyền kháng cáo:

Bị cáo, Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 331; khoản 1 Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật hình sự; Điểm a, b khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự và điểm a, b khoản 2 Điều 106; Điều 135; khoản 2 Điều 136; khoản 1 Điều 292; Điều 293; Điều 331; khoản 1 Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự. Điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ Ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Toà án; Điều 2 Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán-Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật hình sự về án treo đối với bị cáo T.

Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự; Điểm a, b khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự và điểm a, b khoản 2 Điều 106; Điều 135; khoản 2 Điều 136; khoản 1 Điều 292; Điều 293; Điều 331; khoản 1 Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự. Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Toà án đối với bị cáo L.

Xử:

[1] Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Ngọc T, bị cáo Tạ Xuân L phạm tội “Đánh bạc”.

[2] Về hình phạt:

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc T 15 (mười lăm) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 30 (B mươi) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm ngày 11/6/2021.

+ Giao bị cáo cho UBanD xã Ngọc Châu, Huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

+ Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 64 của Luật thi hành án hình sự.

+ Trong thời gian thử thách, nếu bị cáo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định của Bộ luật hình sự.

Miễn phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo Nguyễn Ngọc T.

- Xử phạt bị cáo Tạ Xuân L 09 (chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đi thi hành án.

Phạt bổ sung bằng tiền 10.000.000 đồng (mười triệu đồng) đối với bị cáo Tạ Xuân L.

[3] Về vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy:

+ 01 tờ giấy hình chữ nhật (bìa vở giấy Hải Tiến một mặt có ghi “TRÍCH ĐIỀU LỆ TRƯỜNG THPT”), một mặt có ghi các chữ, số, ký tự viết tay bằng mực màu xanh và mực màu đỏ, tờ giấy bị cháy tạo thành lỗ ở giữa tờ giấy + 08 tờ giấy hình chữ nhật màu trắng cả hai mặt là công cụ bị cáo T sử dụng để ghi cáp cho khách khi đến mua số lô, số đề; 01 quyển sổ bìa sổ có ghi “GIÁO ÁN” màu đỏ, kiểm tra trong quyển sổ có ghi nhiều số, ký tự bằng mực màu xanh, màu đen + 01 bút viết vỏ màu xanh, trên nắp bút ghi GP - 777 + 01 kéo có tay cầm bằng nhựa màu đỏ, - Tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước:

+ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 106, màu đen có số Serri1: 355755109658971.

+ 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A3S màu đỏ, có số IMEI1: 867791049148253; số IMEI2:867791049148246.

+ Số tiền 1.480.000 đồng từ tài khoản tạm gửi của Công an Huyện Tân Yên số: 3949.0.9048607 tại Kho bạc Nhà nước Huyện Tân Yên đến tài khoản của Chi cục Thi hành án dân sự Huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang tại Kho bạc Nhà nước Huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang.

- Trả lại cho bị cáo T số tiền 4.540.000 đồng từ tài khoản tạm gửi của Công an Huyện Tân Yên số: 3949.0.9048607 tại Kho bạc Nhà nước Huyện Tân Yên đến tài khoản của Chi cục Thi hành án dân sự Huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang tại Kho bạc Nhà nước Huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang.

[4] Về án phí:

Bị cáo Nguyễn Ngọc T được miễn án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo Tạ Xuân L phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

[5] Về quyền kháng cáo:

Các bị cáo; Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được (hoặc niêm yết) bản án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

281
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 30/2021/HS-ST ngày 11/06/2021 về tội đánh bạc

Số hiệu:30/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Yên - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;