Bản án 29/2021/HS-ST ngày 27/04/2021 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH LIÊM - TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 29/2021/HS-ST NGÀY 27/04/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 27 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 25/2021/TLST-HS ngày 31 tháng 3 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 26/2021/QĐXXST-HS ngày 13/4/2021, đối với bị cáo:

- Nguyễn Văn Th - sinh năm 1980; nơi cư trú: số 4, đường PCT, phường LH, thành phố NĐ, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Đức V (đã chết) và bà Trần Thị T; có vợ Đỗ Thị Thanh H và có 02 con, con lớn sinh năm 2007, con nhỏ sinh năm 2019; tiền án, tiền sự: không; nhân thân: ngày 27/11/2007, bị Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định xử phạt 24 tháng tù về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”; ngày 02/3/2011, bị Công an phường Cửa Bắc, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định xử phạt vi hành chính về hành vi “Đánh bạc”. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 19/01/2021 đến ngày 22/01/2021 chuyển tạm giam, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hà Nam; có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: chùa ĐH; địa chỉ: tổ dân phố ĐH, thị Trấn TT, huyện TL, tỉnh Hà Nam; người đại diện hợp pháp: bà Lê Thị M - sinh năm 1933; nơi cư trú: tổ dân phố ĐH, thị trấn TT, huyện TL, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Trịnh Xuân Q - sinh năm 1991; nơi cư trú: tổ dân phố ĐDG, phường CG, thị xã DT, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.

2. Lê Xuân H - sinh năm 1979; nơi cư trú: thôn Tr, xã LT, thành phố PL, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.

3. Lê Thanh B - sinh năm 1975; nơi ĐKHKTT: số nhà 50/4..., đường TNT, phường PĐP, thành phố NĐ, tỉnh Nam Định; nơi đăng ký tạm trú và nơi ở: thôn TX, xã LT, thành phố PL, tỉnh Hà Nam; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Văn Th, Trịnh Xuân Q, Lê Xuân H và Lê Thanh B có quan hệ quen biết nhau. Khoảng 22 giờ ngày 15/8/2020, Q điều khiển xe mô tô đến nhà H chơi. Tại đây, Q gặp Th đứng ở sân nhà H, Th nói với Q: “Đi đào cây với anh, mai anh cho mày ít tiền”; nghe Th nói vậy, Q hiểu ý Th rủ đi đào trộm cây nên đồng ý. Sau đó, Th mang theo 01 (một) chiếc thuổng, 01 (một) ba lô bên trong có 01 (một) con dao, 01 (một) chiếc liềm và gọi điện thoại cho một người nam giới điều khiển xe ô tô màu xám, loại xe 04 chỗ ngồi đến đón rồi chở Th và Q đi đến khu vực chùa ĐH thuộc tổ dân phố ĐH, thị trấn TT, huyện TL, tỉnh Hà Nam (Th không biết lai lịch của người lái xe và không nhớ biển kiểm soát của chiếc xe ô tô này). Khi đi đến cách chùa ĐH khoảng 500m thì xe dừng lại, Th và Q xuống xe, còn người nam giới điều khiển xe ô tô đi thẳng. Th và Q tiếp tục đi bộ đến khu vực cổng chùa. Tuy nhiên, do có nhiều tiếng chó sủa ở các hộ dân xung quanh, sợ bị phát hiện, nên Th và Q chưa vào chùa đào trộm cây. Đến khoảng 02 giờ ngày 16/8/2020, Th và Q trèo qua bờ tường vào bên trong sân chùa ĐH. Th dùng tay cầm thuổng và chiếc liềm mang theo, còn Q dùng tay và sử dụng 01 (một) chiếc liềm tìm được ở khu vực chùa rồi cùng đào cây hoa mẫu đơn trồng trong bồn cây tại sân chùa ĐH. Đến khoảng hơn 3 giờ ngày 16/8/2020, cả hai đào xong cây mẫu đơn và hạ cây nằm ngả xuống sân chùa rồi dùng dây mang theo buộc tán lá cây lại cho gọn. Tiếp đó, Th dùng chiếc thuổng đập hỏng chiếc khóa Việt Tiệp để khóa cổng chùa và gọi điện thoại cho Lê Xuân H nói: “Có mua cây mẫu đơn ở chùa không?”. H hiểu ý Th hỏi H có mua cây mẫu đơn ở chùa ĐH không vì trước đó Th và H vào chùa ĐH, nên đã nhìn thấy cây hoa mẫu đơn này. Biết rõ cây mẫu đơn là do Th trộm cắp ở chùa ĐH, nhưng H vẫn đồng ý mua. Nhưng do không có tiền, nên sau khi trao đổi qua điện thoại với Th, H điều khiển xe mô tô đến trạm dừng nghỉ BA tại thôn TX, xã LT, thành phố PL, tỉnh Hà Nam do Lê Thanh B làm chủ. Khi gặp B, H nói: “Anh có mua cây mẫu đơn vàng không đẹp lắm?”, B nói: “Đẹp không?”, H nói: “Đẹp”, B đồng ý mua và nói: “Thế thì đi”. B điều khiển xe ô tô biển kiểm soát 18A-08... chở H đến khu vực chùa ĐH, trên đường đi H nói với B: “Đưa cho chúng nó 10.000.000 đồng”. Sau khi gọi điện thoại cho H, Th và Q kéo cây mẫu đơn ra sát cổng chùa rồi Th nói với Q: “Đi ra ngoài xem thế nào, đợi ông H với ông B đi xe đến thì quay lại bê cây lên xe”. Hiểu ý Th bảo mình đi cảnh giới, Q trèo qua bờ tường rào của chùa, đi ra khu vực cánh đồng cách chùa khoảng 15 đến 20m để cảnh giới. Đến khoảng 04 giờ cùng ngày, B điều khiển xe ô tô chở H đến khu vực trước cổng chùa ĐH và dừng xe cho H xuống, còn B tiếp tục điều khiển xe ô tô đi tiếp khoảng 30m rồi điều khiển xe vòng lại chỗ H đang đứng; Q cũng đi bộ quay lại khu vực cổng chùa. B xuống xe đi vòng ra phía sau để nâng cốp xe lên thì thấy Th, Q và H đứng cạnh 01 (một) cây mẫu đơn. B cùng với Th, Q và H khiêng cây mẫu đơn đặt vào cốp sau xe ô tô của B rồi B điều khiển xe chở H, Th và Q cùng cây hoa mẫu đơn về trạm dừng nghỉ B An. Tại trạm dừng nghỉ BA, B, H, Th, Q và người nam giới tên S (không xác định được lai lịch) khiêng cây mẫu đơn từ cốp xe ô tô xuống đặt ở khu vực sân phía trước trạm dừng nghỉ. Sau đó, B đi ngủ còn H, Th và Q đi về nhà; đến nay, B cũng chưa trả tiền mua cây mẫu đơn cho Th.

Sau khi phát hiện bị mất tài sản, bà Lê Thị M là thủ từ của chùa ĐH đã làm đơn trình báo Công an huyện Thanh Liêm. Nhận được tin báo, Cơ quan CSĐT Công an huyện Thanh Liêm đã tiến hành khám nghiệm hiện trường, đồng thời tiến hành điều tra, thu giữ vật chứng có liên quan.

* Tài sản, vật chứng thu giữ gồm:

- Thu giữ tại hiện trường 02 (hai) chiếc giày cùng một đôi, màu đen, bám nhiều bùn đất; 01 (một) con dao bám nhiều bùn đất; 01 (một) khóa Việt Tiệp bằng kim loại bị ép lực, khuyết một đoạn dài 0,5cm.

- Lê Thanh B tự nguyện giao nộp 01 (một) cây mẫu đơn có hoa màu vàng cao 2,9m, đường kính tán rộng 3,5m và 01 (một) xe ô tô biển kiểm soát 18A- 08... nhãn hiệu Chevrolet.

- Đối với 01 (một) chiếc thuổng, 01 (một) chiếc liềm Th sử dụng đào trộm cây mẫu đơn và 01 (một) chiếc điện thoại di động Th đã dùng liên lạc với H để bán cây mẫu đơn: theo Th khai, chiếc thuổng và chiếc liềm đã bị rơi trên đường vận chuyển cây mẫu đơn về trạm dừng nghỉ Thanh Bình; còn chiếc điện thoại di động mà Th sử dụng liên lạc với H để bán cây mẫu đơn đã bị rơi mất. Do vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh Liêm không có căn cứ truy tìm đối với các vật chứng trên.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số 32/KL-HĐĐGTS ngày 01/9/2020 của Hội đồng định giá tài sản huyện Thanh Liêm, kết luận: “Giá trị của 01 cây mẫu đơn hoa màu vàng có tuổi đời khoảng 30-40 năm, cây có chiều cao 2,9m, đường kính tán cây rộng 3,5m. Cây có 09 thân cây, thân cây lớn nhất có đường kính 05cm, thân cây nhỏ nhất có đường kính 1,2cm giá trị tại thời điểm ngày 16/8/2020 là 15.000.000đ (mười lăm triệu đồng)”.

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ thu thập được, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh Liêm đã ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Nguyễn Văn Th và Trịnh Xuân Q về tội “Trộm cắp tài sản”, khởi tố bị can đối với Lê Xuân H và Lê Thanh B về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Do Nguyễn Văn Th bỏ trốn, nên Cơ quan điều tra đã ra lệnh truy nã đối với Th và ra quyết định tách vụ án. Ngày 09/02/2021, Tòa án nhân dân huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam đã đưa Trịnh Xuân Q, Lê Xuân H và Lê Thanh B ra xét xử. Tại Bản án số 10/2021/HS-ST ngày 09/02/2021, Tòa án nhân dân huyện Thanh Liêm đã tuyên phạt Trịnh Xuân Q 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, Lê Xuân H 12 tháng tù và Lê Thanh B 09 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 18 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm, cùng về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.

Ngày 19/01/2021, Nguyễn Văn Th bị bắt theo lệnh truy nã. Quá trình bắt giữ, Cơ quan điều tra đã thu giữ của Nguyễn Văn Th 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu đen, bị nứt vỡ mặt sau.

* Về xử lý vật chứng: quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh Liêm đã trả lại 01 (một) cây hoa mẫu đơn cho người đại diện hợp pháp của chùa ĐH là bà Lê Thị M. Đối với 01 (một) xe ô tô biển kiểm soát 18A-08... nhãn hiệu Chevrolet và 01 (một) chiếc khóa Việt Tiệp bị hư hỏng đã được xử lý tại Bản án số 10/2021/HS-ST ngày 09/02/2021 của Tòa án nhân dân huyện Thanh Liêm.

* Về trách nhiệm dân sự: người đại diện hợp pháp của chùa ĐH là bà Lê Thị M không có yêu cầu, đề nghị gì.

Tại bản Cáo trạng số 28/CT-VKSTL ngày 29/3/2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Liêm đã truy tố Nguyễn Văn Th về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

* Tại phiên toà:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Liêm giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Th phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 50, Điều 38 của Bộ luật Hình sự - xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Th từ 15 tháng đến 21 tháng tù; miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo. Xử lý vật chứng: trả lại cho bị cáo 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung; tịch thu, tiêu hủy 02 (hai) chiếc giày và 01 (một) con dao.

- Bị cáo Nguyễn Văn Th đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là Lê Thanh B không có yêu cầu, đề nghị gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên toà cũng như tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Văn Th đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu. Lời khai của bị cáo được thẩm tra tại phiên tòa, phù hợp với lời khai của bị hại, biên bản hiện trường, vật chứng thu giữ và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận: với mục đích chiếm đoạt tài sản của người khác để tiêu sài cá nhân, khoảng 02 giờ ngày 16/8/2020, lợi dụng sơ hở trong việc quản lý tài sản, Nguyễn Văn Th và Trịnh Xuân Q đã lén lút đột nhập vào chùa ĐH thuộc tổ dân phố ĐH, thị trấn TT, huyện TL, tỉnh Hà Nam đào trộm 01 (một) cây hoa mẫu đơn trị giá 15.000.000 đồng của chùa ĐH. Sau đó, Th sử dụng điện thoại di động liên lạc để bán cây hoa mẫu đơn trộm cắp được cho Lê Xuân H và H giới thiệu lại cho Lê Thanh B đến mua với giá 10.000.000 đồng, nhưng đến nay B chưa trả tiền cho Th.

Trong vụ án trộm cắp tài sản có nhiều đối tượng tham gia nhưng không phân công vai trò, trách nhiệm cụ thể, nên xác định là đồng phạm giản đơn. Xét vai trò của các bị cáo trong vụ án thấy: Nguyễn Văn Th là người khởi xướng, trực tiếp thực hiện hành vi trộm cắp và là người liên lạc với H để bán tài sản trộm cắp, nên giữ vai trò thứ nhất; Trịnh Xuân Q là người cùng thực hiện hành vi trộm cắp với Th, nên giữ vai trò thứ hai trong vụ án.

[3] Hành vi nêu trên của Nguyễn Văn Th là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự tại địa phương. Bản thân bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, trộm cắp tài sản có giá trị từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng. Hội đồng xét xử kết luận: Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Liêm truy tố Nguyễn Văn Th về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Xét về nhân thân bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thấy rằng:

Về nhân thân: bị cáo là người có nhân thân xấu.

Về tình tiết tăng nặng: bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào.

Về tình tiết giảm nhẹ: bị cáo đã “thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải”, nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Ngoài ra, bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn được chính quyền địa phương xác nhận, có bố đẻ được tặng Huân chương chiến sĩ giải phóng; nên Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Qua xem xét về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo; Hội đồng xét xử xét thấy: bị cáo là người có nhân thân xấu, đã bị kết án nhưng không lấy đó làm bài học để tu dưỡng, rèn luyện bản thân trở thành người có ích cho gia đình và xã hội, mà lại tiếp tục phạm tội, thể hiện sự coi thường pháp luật, không chịu cải tạo. Vì vậy, cần áp dụng hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo và phòng ngừa chung.

Về hình phạt bổ sung: xét thấy bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định, nên miễn phạt tiền đối với bị cáo.

[4] Về trách nhiệm dân sự: người đại diện hợp pháp của bị hại không có yêu cầu, đề nghị gì; nên Hội đồng xét xử không giải quyết.

[5] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu đen thu giữ của Nguyễn Văn Th: quá trình điều tra xác định, đây là tài sản hợp pháp của Th, không liên quan đến tội phạm, nên sẽ trả lại cho Th.

- Đối với 02 (hai) chiếc giày và 01 (một) con dao: quá trình điều tra xác định, đây là vật dụng cá nhân của Th và Th đã sử dụng chúng để thực hiện hành phạm tội, nay không còn giá trị; nên cần tịch thu, tiêu hủy.

- Đối với 01 (một) cây hoa mẫu đơn: quá trình điều tra xác định là tài sản hợp pháp của chùa ĐH, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh Liêm đã trả cho người đại diện hợp pháp của chùa ĐH là đúng pháp luật.

- Đối với 01 (một) xe ô tô biển kiểm soát 18A-08... và 01 (một) chiếc khóa Việt Tiệp bị hư hỏng đã được xử lý tại Bản án số 10/2021/HS-ST ngày 09/02/2021 của Tòa án nhân dân huyện Thanh Liêm; nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[6] Về các vấn đề khác:

- Đối với Trịnh Xuân Q, Lê Xuân H và Lê Thanh B: quá trình điều tra xác định Q đã có hành vi trộm cắp cây mẫu đơn cùng với Nguyễn Văn Th; H và B có hành vi tiêu thụ tài sản do Q và Th phạm tội mà có. Hành vi của Q, H và B đã bị Tòa án nhân dân huyện Thanh Liêm đưa ra xét xử, đến nay bản án đã có hiệu lực và được đưa ra thi hành; nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

- Đối với người nam giới điều khiển xe ô tô chở Nguyễn Văn Th, Trịnh Xuân Q đi trộm cắp tài sản và người nam giới tên Sơn bê cây mẫu đơn từ ô tô xuống sân trạm dừng nghỉ: quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh Liêm đã điều tra xác minh, nhưng đến nay không xác định được lai lịch cụ thể của những người này cũng như chiếc xe ô tô đã chở Th và Q, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh Liêm tách ra xử lý sau là phù hợp pháp luật.

[7] Về án phí: bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 38, Điều 47 của Bộ luật Hình sự; các điều 106 và 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội,

1. Tuyên bố: bị cáo Nguyễn Văn Th phạm tội “Trộm cắp tài sản”;

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Th 15 (mười lăm) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ là 19/01/2021.

2. Xử lý vật chứng: trả lại cho Nguyễn Văn Th 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu đen đã cũ, bị vỡ mặt sau; tịch thu, tiêu hủy 02 (hai) chiếc giày và 01 (một) con dao (tình trạng vật chứng như trong Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 26/4/2021 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh Liêm với Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thanh Liêm).

3. Án phí: bị cáo Nguyễn Văn Th phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo đối với bản án: bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt tại phiên tòa, được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người đại diện hợp pháp của bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa, được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

5. Quyền yêu cầu thi hành án, nghĩa vụ thi hành án, thời hiệu yêu cầu thi hành án: trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

184
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 29/2021/HS-ST ngày 27/04/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:29/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Liêm - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;