Bản án 29/2021/HNGĐ-ST ngày 13/04/2021 về ly hôn 

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LÂM HÀ, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 29/2021/HNGĐ-ST NGÀY 13/04/2021 VỀ LY HÔN 

Ngày 13 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lâm Hà xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số 404/2020/TLST-HNGĐ ngày 11/11/2020 về việc: “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 33/2021/QĐXXST – HNGĐ ngày 29 tháng 3 năm 2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Vũ Thị Q, sinh năm 1989 Địa chỉ: Thôn Đ, xã H, huyện L, tỉnh L.

2. Bị đơn: Anh Đặng Đình Đ, sinh năm 1986 Địa chỉ: Thôn M, xã H, huyện L, tỉnh L.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn chị Vũ Thị Q trình bày:

Chị xây dựng gia đình với anh Đặng Đình Đ năm 2006 trên cơ sở tự nguyện, có thời gian tìm hiểu 02 tháng, có tổ chức lễ cưới theo phong tục, tập quán và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Hoài Đ, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng vào ngày 02/12/2006. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại nhà bố mẹ chồng hòa thuận, hạnh phúc, tuy có xảy ra mâu thuẫn nhưng nhỏ, vợ chồng vẫn tự giải quyết được. Nhưng từ năm 2018 đến nay, giữa vợ chồng có quá nhiều khác biệt về tính cách, lối sống, quan điểm sống. Vợ chồng không thể tìm được tiếng nói chung. Cuộc sống vợ chồng luôn trong tình trạng căng thẳng, mệt mỏi. Mặc dù, vợ chồng đã ngồi lại để cùng nhau hàn gắn tình cảm, tìm lại tiếng nói chung nhưng vợ chồng chị vẫn không có kết quả. Vợ chồng không có sự quan tâm, chăm sóc nhau, không có sự chia sẻ trong cuộc sống. Có lần do tính chất công việc của chị làm ở phòng Gym về muộn, anh Đ đã khóa trái cửa nhà khiến chị phải ngủ ngoài hiên nhà đến 2 giờ sáng và cũng từ đây anh Đ cũng bắt đầu ghen tuông vô cớ, thường xuyên xúc phạm bằng những lời lẽ thậm tệ. Do không chịu đựng được cuộc sống căng thẳng, chị đã chuyển về nhà bố mẹ đẻ ở và sống ly thân với anh Đ từ tháng 8/2020 đến nay nhưng quan hệ vợ chồng vẫn không được cải thiện tốt hơn, nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn mâu thuẫn đã trầm trọng, chị khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Đ.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung tên là Đặng Đình Hoàng Đ, sinh ngày 07/5/2007 và Đặng Đình Bảo A, sinh ngày 29/6/2011. Khi ly hôn, chị yêu cầu được nuôi dưỡng, giáo dục con chung là Đặng Đình Bảo A; chị đồng ý giao con chung là Đặng Đình Hoàng Đ cho anh Đ trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục theo nguyện vọng của con chung. Không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Vợ chồng tự thỏa thuận giải quyết về tài sản chung, chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Vợ chồng không có nợ chung, chị không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ngoài ra chị không có ý kiến yêu cầu gì thêm.

Bị đơn anh Đặng Đình Đ trình bày:

Anh xây dựng gia đình với chị Vũ Thị Q năm 2006 trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức lễ cưới theo phong tục, tập quán và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Hoài Đ, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng vào ngày 02/12/2006. Vợ chồng chung sống hòa thuận, hạnh phúc, có xảy ra mâu thuẫn nhưng không lớn. Từ năm 2018, vợ anh thường xuyên đi sớm về tối dẫn đến việc anh hiểu lầm và ghen tuông, vợ chồng có xảy ra cãi vã. Trong lúc nóng giận, có lần anh đã không mở cửa cho chị Q vào nhà khiến chị Q phải ngủ ngoài hiên nhà. Từ tháng 8/2020, chị Q bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở, vợ chồng sống ly thân cho đến nay mặc dù anh có gặp gỡ để vợ chồng đoàn tụ nhưng chị Q không hợp tác. Nay chị Q xin ly hôn, anh xác định mâu thuẫn vợ chồng chưa đến mức độ trầm trọng, anh mong chị Q suy nghĩ lại để vợ chồng đoàn tụ, cùng nhau nuôi dạy con cái. Anh không đồng ý ly hôn với chị Q.

Về con chung, con chung như chị Q trình bày là đúng. Khi ly hôn, anh yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục con chung con chung là Đặng Đình Hoàng Đ, anh đồng ý giao con chung là Đặng Đình Bảo A cho chị Q trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục theo nguyện vọng của con chung. Không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Vợ chồng tự thỏa thuận giải quyết về tài sản chung, anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Vợ chồng không có nợ chung, anh không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ngoài ra, anh không trình bày và yêu cầu gì thêm.

Tòa án đã tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải nhưng không thành.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lâm Hà phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng cũng như phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án theo hướng đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị Q, xử cho chị Q và anh Đ được ly hôn; về con chung: Giao con chung là con chung là Đặng Đình Hoàng Đ sinh ngày 07/5/2007 cho anh Đ trực tiếp nuôi dưỡng và giao cháu Đặng Đình Bảo A, sinh ngày 29/6/2011 cho chị Q trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung theo nguyện vọng của các con chung, về việc cấp dưỡng nuôi con chung không đề cập giải quyết.

Về tài sản chung, nợ chung các đương sự không yêu cầu giải quyết nên đề nghị Hội đồng xét xử không đặt ra để xem xét.

Về án phí: Buộc chị Q phải chịu án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm về việc ly hôn theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận cũng như ý kiến phát biểu của Viện kiểm sát tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Tại phiên tòa, bị đơn anh Đ đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến tham gia phiên tòa, anh Đ có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Do vậy, căn cứ Điều 227 và Điều 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015, xét xử vắng mặt bị đơn anh Đ là phù hợp.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Q và anh Đ xây dựng gia đình với nhau vào năm 2006, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Hoài Đ, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng vào ngày 22/12/2006. Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc có xẩy ra mâu thuẫn nhưng vẫn giải quyết được đến năm 2018 thì vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn gây bất hòa, cãi vã thường xuyên vợ chồng bất đồng quan điểm, lối sống không thể tìm được tiếng nói chung. Cuộc sống vợ chồng luôn trong tình trạng căng thẳng, mệt mỏi. Mặc dù, hai vợ chồng đã ngồi để hàn gắn tình cảm, tìm lại tiếng nói chung nhưng vẫn không có kết quả. Vợ chồng không còn có sự quan tâm, chăm sóc nhau, không có sự chia sẻ trong cuộc sống. Có lần do tính chất công việc của chị Q làm ở phòng gym về muộn, anh Đ đã khóa trái cửa nhà và từ đây anh Đ bắt đầu ghen tuông vô cớ, thường xuyên xúc phạm tôi bằng những lời lẽ thậm tệ. Cuộc sống chung luôn áp lực, căng thẳng, chị đã chuyển về nhà bố mẹ đẻ ở và sống ly thân với anh Đ từ tháng 8/2020 đến nay nhưng quan hệ vợ chồng vẫn không được cải thiện. Anh Đ không đồng ý ly hôn theo yêu cầu của chị Q.

Xét thấy, mâu thuẫn giữa vợ chồng chị Q và anh Đ là có thật nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống, vợ chồng không có sự chia sẽ thông cảm với nhau trong cuộc sống. Chị Q đã nhiều lần chuyển về sinh sống ở nhà bố mẹ đẻ sau đó lại trở vể nhà sinh sống nhưng quan hệ vợ chồng vẫn không được cải thiện. Từ tháng 8/2020 chị Q chuyển về nhà bố mẹ đẻ sinh sống, vợ chồng ly thân từ đó đến nay không quan tâm, chia sẻ, chăm sóc lẫn nhau nữa mạnh ai nấy sống.

Mặc dù vợ chồng đã được gia đình động viên, hòa giải nhưng vợ chồng vẫn không cải thiện được tình cảm mà vợ chồng mâu thuẫn ngày càng trầm trọng hơn.

Nay chị Q yêu cầu ly hôn thì anh Đ không đồng ý vì anh cho rằng mâu thuẫn vợ chồng anh nhỏ không lớn có thể ngồi lại nói chuyện được với nhau. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cũng đã nhiều lần triệu tập làm việc, thông báo hòa giải để các đương sự có điều kiện trao đổi, thống nhất, cải thiện hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng đến nay bản thân anh Đ vẫn không có biện pháp để cải thiện quan hệ tình cảm vợ chồng tốt hơn, còn chị Q vẫn giữ nguyên yêu cầu xin ly hôn. Anh Đ vắng mặt tại phiên tòa, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt và anh không đồng ý ly hôn với chị Q. Do đó, nếu cứ kéo dài tình trạng hôn nhân như hiện tại cũng không thể mang lại hạnh phúc cho các bên đương sự. Vì vậy, căn cứ Điều 53 và khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 cần chấp nhận đơn xin ly hôn của chị Q, giải quyết cho chị Q và anh Đ được ly hôn là hoàn toàn phù hợp.

[3] Về con chung: Vợ chồng chị Q và anh Đ xác định, quá trình chung sống vợ chồng có 02 con chung tên là Đặng Đình Hoàng Đ, sinh ngày 07/5/2007 và Đặng Đình Bảo A, sinh ngày 29/6/2011. Khi ly hôn chị Q yêu cầu nuôi dưỡng con chung Đặng Đình Bảo A, sinh ngày 29/6/2011, không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng; còn anh Đ yêu cầu nuôi cháu Đặng Đình Hoàng Đ, sinh ngày 07/5/2007 không yêu cầu giải quyết về cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy, nguyện vọng nuôi con của anh Đ và chị Q đều chính đáng, nhưng khi giao con chung cho các bên có trách nhiệm trực tiếp nuôi dưỡng cần xem xét đến điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng và phát triển toàn diện về mọi mặt của các con chung.

Nhận thấy, từ khi chị Q và anh Đ sống ly thân thì con chung Đặng Đình Bảo A sống cùng chị Q; con chung Đặng Đình Hoàng Đ sống cùng anh Đ. Con chung Đặng Đình Hoàng Đ hiện đang trong giai đoạn học văn hóa căn bản, cần có sự giám sát, dạy giỗ từ cả gia đình và nhà trường để đảm bảo cháu được ổn định học tập và phát triển tốt. Tại phiên tòa, chị Q cho biết cháu Đạt ở với bố được chăm sóc, hiện vẫn đi học và thể chất phát triển bình thường. Còn con chung Đặng Đình Bảo A nhỏ hơn cần có sự quan tâm, chăm sóc và nuôi dưỡng của chị Q. Anh Đ hiện làm nghề sửa xe máy, còn chị Q buôn bán hàng ăn cùng gia đình, cả hai đều có công việc và thu nhập tương đối ổn định, đảm bảo điều kiện nuôi con chung. Vì vậy, để đảm bảo điều kiện nuôi dưỡng và chăm sóc, phát triển về mọi mặt ổn định cho các con chung, đồng thời cũng không làm ảnh hưởng đến tình cảm và trách nhiệm làm cha, mẹ của chị Q và anh Đ, căn cứ khoản 2, khoản 3 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, cần giao con chung là Đặng Đình Hoàng Đ, sinh ngày 07/5/2007 cho anh Đ trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung cho đến khi con chung đủ 18 tuổi; Giao con chung Đặng Đình Bảo A, sinh ngày 29/6/2011 cho chị Q trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung cho đến khi con chung đủ 18 tuổi theo nguyện vọng của các con chung là phù hợp. Việc cấp dưỡng nuôi con do chị Q, anh Đ không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về tài sản chung: Vợ chồng chị Q, anh Đ tự thỏa thuận giải quyết, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về nợ chung: Vợ chồng chị Q, anh Đ không có nợ chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí: Chị Vũ Thị Q phải chịu 300.000đồng án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm về việc ly hôn.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Điều 53, khoản 1 Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

- Căn cứ khoản 1 Điều 28, Điều 147, Điều 203 Điều 227; Điều 228 và Điều 266 Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015;

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.;

Xử :

1. Chấp nhận đơn xin ly hôn của chị Vũ Thị Q, xử cho chị Vũ Thị Q và anh Đặng Đình Đ được ly hôn.

2. Về con chung: Giao con chung Đặng Đình Hoàng Đ, sinh ngày 07/5/2007 cho anh Đặng Đình Đ trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục; giao con chung Đặng Đình Bảo A, sinh ngày 29/6/2011 cho chị Vũ Thị Q trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục theo nguyện vọng của các con chung cho đến khi con chung đủ 18 tuổi. Không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Quyền đi lại thăm nom con, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con; quyền thay đổi người trực tiếp nuôi con; thay đổi mức cấp dưỡng được thực hiện theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình.

3. Về án phí: Buộc chị Vũ Thị Q phải chịu 300.000đồng tiền án phí Hôn nhân và Gia đình sơ thẩm về việc ly hôn, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) chị Q đã nộp theo biên lai thu tiền số AA/2016/0014894 ngày 11/11/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng. Chị chị Vũ Thị Q đã nộp đủ án phí.

Báo cho nguyên đơn có mặt tại phiên tòa biết có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày tròn kể từ ngày tuyên án (13/4/2021); riêng bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

191
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 29/2021/HNGĐ-ST ngày 13/04/2021 về ly hôn 

Số hiệu:29/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lâm Hà - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 13/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;