Bản án 29/2020/HS-ST ngày 25/05/2020 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUẦN G, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 29/2020/HS-ST NGÀY 25/05/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 25/5/2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 29/2020/TLST-HS ngày 08/5/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 29/2020/QĐXXST-HS ngày 13/5/2020 của Tòa án nhân dân huyện Tuần G đối với bị cáo:

1. Họ và tên: Bạc Cầm Th; Tên gọi khác: Không;

Sinh năm 1992 tại T G, Đ B; Nơi ĐKTT và chỗ ở: Bản Chiềng Ch, thị trấn Tuần G, huyện T G, tỉnh Điện Biên; Nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 06/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bạc Cầm Ch - SN 1968 con bà Lò Thị Th - SN 1972; Bị cáo chưa có vợ con; gia đình bị cáo có 02 anh em ruột, bị cáo là con thứ nhất; tiền án, tiền sự: 04 tiền án, tiền sự: không; Nhân thân: Bị cáo đã từng 04 lần bị xét xử đều chưa được xóa án tích: Lần 1: Ngày 17/8/2010 bị Tòa án nhân dân huyện Tuần G xử phạt 09 tháng tù về tội: “Trộm cắp tài sản” và 24 tháng tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tổng hợp hình phạt là 33 tháng tù; lần 2: Ngày 23/10/2014 bị Tòa án nhân dân huyện Tuần G xử phạt 09 tháng tù về tội: “Trộm cắp tài sản”; lần 3: Ngày 10/11/2015 bị Tòa án nhân dân huyện Tuần G xử phạt 15 tháng tù về tội: “Trộm cắp tài sản; lần 4: Ngày 16/3/2017 Tòa án nhân dân huyện Tuần G xử phạt 30 tháng tù về tội: “Trộm cắp tài sản; bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/3/2020 đến ngày xét xử, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2. Bị hại: Chị Quàng Thị Ch - sinh năm 1987 Trú tại: Bản G, xã Quài C, huyện T G, tỉnh Đ B, vắng mặt có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 07 giờ 15 phút ngày 17/3/2020, Bạc Cầm Th đi qua cửa hàng tạp hóa của chị Quàng Thị Ch tại bản G, xã Q C, huyện Tuần G thấy không có người trông coi, Th nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. Th đi vào nhà thấy trên bàn uống nước có 01 túi xách bằng vải màu đen, Thanh mở túi xách lấy trộm tài sản trong túi có tổng giá trị 878.000 đồng gồm số tiền là 178.000 đồng (có nhiều mệnh giá tiền khác nhau) và 32 thẻ điện thoại của nhà mạng Mobiphone có giá trị 700.000 đồng trong đó có 30 chiếc thẻ cào mệnh giá 20.000 đồng và 02 thẻ cào mệnh giá 50.000 đồng được đựng trong túi nilon màu trắng, Th cho vào túi quần đang mặc và đi ra ngoài. Khoảng 05 phút sau, Th quay lại cửa hàng tạp hóa dùng 5.000 đồng trong số tiền vừa trộm cắp được mua bánh mỳ của bà Lò Thị K là mẹ chồng của chị Ch. Sau đó Th đi về nhà, đi qua Bản S, xã Quài C, Th mua đồ ăn và nước uống hết 140.000 đồng. Khoảng 9 giờ cùng ngày, khi đi đến bản C, xã Quài C thấy lực lượng Công an đang làm nhiệm vụ truy bắt, biết hành vi trộm cắp tài sản của mình đã bị phát hiện, Th đã đến Công an xã Quài C để đầu thú về hành vi phạm tội của mình và giao nộp số tài sản còn lại là 33.000 đồng và 32 chiếc thẻ cào điện thoại Mobiphone.

Tại phiên tòa bị cáo cũng thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản Cáo trạng đã truy tố: Do bản thân lười lao động muốn có tiền tiêu sài cá nhân và sử dụng ma túy nên bị cáo đã lợi dụng sự sơ hở của bị hại chị Quàng Thị Ch lén lút trộm cắp tài sản có tổng giá trị là 878.000 đồng, bị cáo đã tiêu sài cá nhân hết 145.000 đồng. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, đã thành khẩn thật thà khai báo.

Bị hại chị Quàng Thị Ch có đơn xin xét xử vắng mặt: Tại đơn xin xét xử vắng mặt chị giữ nguyên lời khai tại cơ quan điều tra. Về phần trách nhiệm dân sự chị đã được cơ quan điều tra trả lại 32 chiếc thẻ cào mobiphone và số tiền 33.000 đồng, chị không có yêu cầu gì về số tiền 145.000 đồng bị cáo chưa bồi thường cho chị. Về trách nhiệm hình sự, chị đề nghị Tòa án xét xử bị cáo theo quy định của pháp luật.

Tại bản Cáo trạng số: 30/CT-VKSTG ngày 08/5/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần G đã truy tố bị cáo Bạc Cầm Th về tội: "Trộm cắp tài sản" theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173/BLHS.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần G giữ quyền công tố luận tội bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ điểm b Khoản 1 Điều 173/BLHS; Điểm s Khoản 1, khoản 2 Điều 51/BLHS; điểm h khoản 1 Điều 52/BLHS: Xử phạt bị cáo Bạc Cầm Th từ 15 đến 18 tháng tù về tội: “Trộm cắp tài sản”;

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo theo khoản 5 Điều 173/BLHS. Về xử lý vật chứng: Vật chứng đã được trả lại cho bị hại chị Quàng Thị Ch theo Quyết định xử lý vật chứng số 09 ngày 30/3/2020 của cơ quan cảnh sát Điều tra Công an huyện Tuần G và biên bản về việc trả lại đồ vật, tài liệu ngày 30/3/2020.

Về trách nhiệm dân sự: Đề nghị chấp nhận việc bị hại không yêu cầu bị cáo phải bồi thường thêm gì khác.

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136/BLTTHS và điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH về Quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí HSST.

Bị cáo không bào chữa gì cho hành vi phạm tội của mình, hoàn toàn nhất trí với Bản luận tội, không có ý kiến gì tranh luận.

Lời nói sau cùng bị cáo xin HĐXX giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]Xét hành vi của bị cáo bị truy tố: Ngày 17/3/2020, Bạc Cầm Th lợi dụng sự sơ hở của chủ sở hữu là chị Quàng Thị Ch đã vào cửa hàng tạp hóa của chị tại bản G, xã Quài C, huyện Tuần G lén lút lấy 32 chiếc thẻ cào Mobiphone và 178.000 đồng có tổng giá trị là 878.000 đồng.

Hành vi phạm tội của bị cáo được chứng minh bằng các biên bản ghi lời khai, các bản cung của bị cáo, bị hại, người làm chứng Lò Thị K, phù hợp với các biên bản khám nghiệm hiện trường, với vật chứng đã thu giữ cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đủ cơ sở khẳng định hành vi của bị cáo đã đầy đủ yếu tố cấu thành tội: “ Trộm cắp tài sản" quy định tại khoản 1 Điều 173/BLHS.

Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an và an toàn xã hội, gây hoang mang trong quần chúng Nhân dân.

Từ những phân tích trên, HĐXX khẳng định Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần G truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, có căn cứ pháp luật. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực để chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi phạm tội của mình.

[2] Xét tính chất, mức độ hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo cho thấy: Bị cáo đã lén lút trộm cắp tài sản có tổng giá trị là 878.000 đồng. Tuy giá trị tài sản trộm cắp chưa đủ 2.000.000 đồng song bị cáo phạm tội trong thời gian chưa được xóa án tích nên hành vi của bị cáo thuộc điểm b khoản 1 Điều 173/BLHS với mức hình phạt từ cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Hành vi phạm tội của bị cáo là ít nghiêm trọng.

[3] Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Từ nhỏ được gia đình nuôi ăn học hết lớp 06/12 thì ở nhà cùng gia đình. Quá trình sinh sống tại địa phương bị cáo đã không tu dưỡng rèn luyện bản thân nên từ năm 2010 đến năm 2017 đã 4 lần bị xét xử và chưa lần nào được xóa án tích, đã thể hiện ý thức coi thường pháp luật. Năm 2010 bị cáo bị xử phạt 09 tháng tù về tội: “Trộm cắp tài sản” và 24 tháng tù về tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Bản án số 35/2010/HSST ngày 17/8/2010 của Tòa án nhân dân huyện Tuần G, Bản án chưa được xóa án tích lại phạm tội: “Trộm cắp tài sản” vào ngày 17/3/2020 nên bị áp dụng tình tiết tăng nặng là tái phạm theo điểm h khoản 1 Điều 52/BLHS. Bị cáo là người có nhân thân xấu.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình, HĐXX xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo Điểm s Khoản 1 Điều 51 BLHS để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo. Sau khi thực hiện hành vi phạm tội, qua trích xuất camera tại nhà bị hại, bị hại đã phát hiện ra bị cáo là người thực hiện hành vi trộm cắp, bị cáo đã ra đầu thú cơ quan công an, HĐXX áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51/BLHS.

HĐXX sẽ xem xét hành vi phạm tội của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân bị cáo để áp dụng mức hình phạt phù hợp đối với bị cáo. Bị cáo đã 4 lần bị xét xử, được giáo dục trong môi trường cưỡng chế của nhà nước song vẫn tiếp tục phạm tội, đã thể hiện ý thức coi thường pháp luật. Vì vậy nhất thiết phải lần nữa nghiêm khắc cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để bị cáo có thời gian cai nghiện, học tập cải tạo trong môi trường cưỡng chế của nhà nước để trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội.

{4}Về trách nhiệm dân sự đối với bị cáo: Bị hại là chị Quàng Thị Ch đã nhận được tài sản trộm cắp, không yêu cầu bị cáo bồi thường thêm về dân sự. Xét đây là sự tự nguyện và đúng quy định của pháp luật, HĐXX căn cứ các Điều 584, Điều 585, 589 Bộ luật Dân sự chấp nhận.

[5] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính là phạt tù thì bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung theo khoản 5 Điều 173/BLHS. Song xét thấy hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, là đối tượng sử dụng ma túy, không có nghề nghiệp nên không có khả năng thi hành. Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6]. Về xử lý vật chứng: Vật chứng đã được trả lại cho bị hại chị Quàng Thị Ch theo Quyết định xử lý vật chứng số 09 ngày 30/3/2020 của cơ quan cảnh sát Điều tra Công an huyện Tuần G và biên bản về việc trả lại đồ vật, tài liệu ngày 30/3/2020, chị C nhất trí không có ý kiến gì.

[7] Về án phí: Căn cứ Khoản 2 Điều 136/BLTTHS và điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí HSST.

[8] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tuần Giáo, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần Giáo, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ Luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

Vì các lẽ trên 

QUYẾT ĐỊNH

 Căn cứ điểm b Khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự; Điểm s Khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự:

1. Tuyên bố: Bị cáo Bạc Cầm Th phạm tội: “Trộm cắp tài sản”

2. Xử phạt: Bị cáo Bạc Cầm Th 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam, ngày 17/3/2020.

3. Trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 584, 585, 589 Bộ luật Dân sự: Chấp nhận việc bị hại chị Quàng Thị Ch không yêu cầu bị cáo phải bồi thường.

4. Án phí: Căn cứ Khoản 2 Điều 136/BLTTHS và điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí HSST.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, ngày 25/5/2020. Bị hại Quàng Thị Ch vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

218
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 29/2020/HS-ST ngày 25/05/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:29/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuần Giáo - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;