Bản án 25/2021/HSST ngày 27/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲ CHÂU - TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 25/2021/HSST NGÀY 27/04/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27/4/2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 15/2021/TLST-HS ngày 25 tháng 3 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 16/2021/QĐXXST- HS ngày 12 tháng 4 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Lương Văn T, tên gọi khác: Không; Sinh ngày: 18/4/2003 tại huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An. Nơi cư trú: Bản Th, xã C, huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: Lớp 9/12; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Lương Văn S và bà Lô Thị Gi; Vợ - Con: Chưa có; Tiền án: Ngày 30/9/2020, bị Tòa án nhân dân huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An xử phạt 15 tháng cải tạo không giam giữ về tội “Trộm cắp tài sản”; Tiền sự: Chưa có; Bị tạm giữ từ ngày 13/01/2021 và tạm giam từ ngày 22/01/2021 cho đến nay; Có mặt.

2. Lữ Văn Th, tên gọi khác: Không; Sinh năm: 1993 tại huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An. Nơi cư trú: Bản H, xã C, huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: Lớp 8/12; Dân tộc: Thái; Giới tính:

Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Lữ Văn N (Đã chết) và bà Hà Thị H; Có vợ là Lô Thị H và 01 con; Tiền án: Không; Tiền sự: Chưa có; Nhân thân: Năm 2014, bị Tòa án nhân dân huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An xử phạt 03 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt vào ngày 27/8/2014; Bị tạm giữ từ ngày 13/01/2021 và tạm giam từ ngày 22/01/2021 cho đến nay; Có mặt.

3. Lương Văn Th1, tên gọi khác: Tiu; Sinh năm: 1998 tại huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An. Nơi cư trú: Bản L, xã C, huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: Lớp 9/12; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Lương Văn Th2 và bà Lô Thị X; Vợ - Con: Chưa có; Tiền án - Tiền sự: Chưa có; Bị tạm giữ từ ngày 13/01/2021 và tạm giam từ ngày 22/01/2021 cho đến nay; Có mặt.

Người đại diện hợp pháp của bị cáo Lương Văn T: Anh Lương Văn L. Sinh năm 1988. Trú tại: Bản Th, xã C, huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An. Có mặt.

Người bào chữa cho các bị cáo: Bà Nguyễn Thị Quỳnh Trang. Trợ giúp viên pháp lý. Chi nhánh số 2 - Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Nghệ An.

Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Vào chiều ngày 13/01/2021, khi Lương Văn T đang đi chơi tại khu vực xã C, huyện Quỳ Châu thì gặp Lữ Văn Th1 đi xe máy đến. T đã rủ Th1 đi mua ma túy về sử dụng thì Th1 đồng ý và điều khiển xe máy chở T lên khu vực huyện Quế Phong để mua ma túy. Khi cả hai đi qua quán cắt tóc của Lương Văn Th2 thì ghé vào chơi. Tại đây thì Th1 có nói với Th2 về việc đi mua ma túy và hỏi Th2 có mua không thì Th2 đồng ý và đưa cho Th1 số tiền 100.000đ. Sau khi nhận tiền từ Th2 thì Th1 tiếp tục điều khiển xe máy chở T lên địa bàn huyện Quế Phong. Khi đi đến khu vực xã Mường Nọc, huyện Quế Phong thì cả hai gặp và mua được của một người đàn ông không quan biết một gói ma túy với giá 300.000đ (Trong đó 200.000đ là của T và 100.000đ là của Th2). Sau khi mua được thì cả hai đi về quán của Th2. Vào khoảng 17 giờ 10 phút cùng ngày, khi T và Th1 đang ở trong quán của Th2 thì bị tổ công tác Công an các xã Châu Bính và Châu Thuận tiến hành kiểm tra hành chính và phát hiện trong túi quần đang mặc của T có 01 túi nilong màu vàng bên trong có chứa chất rắn màu trắng (nghi là ma túy). Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Lương Văn T - Lữ Văn Th1 và Lương Văn Th2 và niêm phong vật chứng theo quy định.

Tại bản Kết luận giám định số 197/KL-PC09(Đ2-MT) ngày 18/01/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An kết luận: Mẫu chất rắn màu trắng thu giữ của Lương Văn T, Lữ Văn Th1 và Lương Văn Th2 gửi tới giám định là ma túy (Heroin), có khối lượng là 0,17g.

Cơ quan điều tra không xác định được lai lịch, địa chỉ của người đàn ông bán ma túy cho Lương Văn T và Lữ Văn Th1 nên không có cơ sở để xử lý.

Cáo trạng số 21/CT-VKS-HS ngày 23/3/2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳ Châu đã quyết định truy tố các bị cáo Lương Văn T - Lữ Văn Th1 và Lương Văn Th2 về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS.

Tại phiên tòa, đại diện VKS thực hành quyền công tố vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo về tội danh và điều luật như nội dung Cáo trạng đã nêu và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng:

- Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 - khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 58; Điều 38; Điều 91 và Điều 101 BLHS. Xử phạt bị cáo Lương Văn T từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù. Tổng hợp với hình phạt chưa chấp hành của Bản án số 58/2020/HSST, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung từ 01 năm 04 tháng đến 01 năm 10 tháng tù.

- Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58; Điều 38 BLHS. Xử phạt Lữ Văn Th1 từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù. Xử phạt Lương Văn Th2 từ 01 năm đến 01 năm 03 tháng tù.

- Trả lại chiếc xe máy cho bị cáo Th1. Tịch thu tiêu hủy số Heroin còn lại. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo và buộc các bị cáo phải chịu án phí HSST.

Người bào chữa cho bị cáo trình bày: Nhất trí với tội danh và điều luật như viện dẫn của đại diện Viện kiểm sát. Đề nghị xử phạt Lương Văn T và Lữ Văn Th1 mỗi bị cáo từ 01 năm đến 01 năm 03 tháng tù, xử phạt Lương Văn Th2 01 năm tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

Tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung truy tố của Cáo trạng và không có ý kiến gì trong phần tranh luận. Các bị cáo đề nghị Hội đồng xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Quỳ Châu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳ Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến, khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong giai đoạn điều tra và truy tố đều hợp pháp.

[2] Về nội dung:

[2.1] Tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như sau: Vào ngày 13/01/2021, Lương Văn T và Lữ Văn Th1 đã bàn bạc cùng nhau đi lên địa bàn huyện Quế Phong tìm mua ma túy về sử dụng. Sau đó thì có Lương Văn Th2 cùng góp tiền để tham gia mua Heroin. Tại địa bàn xã Mường Nọc, huyện Quế Phong thì T - Th1 gặp và mua được của một người đàn ông không quen biết một gói ma túy với giá 300.000đ. Sau đó thì T – Th1 cầm theo gói ma túy và đi về quán cắt tóc của Th2. Khoảng 17 giờ 10 phút cùng ngày, khi các bị cáo đang ở trong quán cắt tóc của Th2 thì bị Công an bắt quả tang và thu giữ số ma túy cùng 01 chiếc xe máy.

Thấy rằng lời khai của các bị cáo tại phiên tòa và trong quá trình điều tra là thống nhất với nhau, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ vụ án đã được xem xét, thẩm tra tại phiên tòa. Các bị cáo đã có hành vi tàng trữ ma túy với mục đích để sử dụng. Vì vậy, các bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS đúng như nội dung truy tố của Cáo trạng.

[2.2] Hành vi phạm tội của các bị cáo là nghiêm trọng. Các bị cáo có đủ nhận thức để biết rằng các loại ma túy nói chung và Heroin nói riêng là chất gây nghiện được Nhà nước thống nhất quản lý, nghiêm cấm hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Các bị cáo là người nghiện ma túy nhưng không thật sự có ý thức cai nghiện để từ bỏ ma túy mà còn tìm mua ma túy để sử dụng nhằm thỏa mãn cơn nghiện. Vì vậy, cần phải xử phạt nghiêm và lên cho các bị cáo một mức hình phạt tương xứng nhằm răn đe, cải tạo giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung. Cần cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có đủ điều kiện giáo dục các bị cáo trở thành người lương thiện, có ích cho gia đình và xã hội.

Trong vụ án này, các bị cáo Lương Văn T và Lữ Văn Th1 là những người có vai trò chính. Bị cáo T là người đã khởi xướng, rủ rê Lữ Văn Th1 tham gia thực hiện hành vi phạm tội. Còn bị cáo Th1 là người đã rủ rê, lôi kéo Lương Văn Th2 góp tiền để mua ma túy. Ngoài ra, bị cáo T là người đã trực tiếp bỏ tiền để mua ma túy và tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng. Bên cạnh đó, bị cáo T phạm tội lần này thuộc trường hợp “Tái phạm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo Lương Văn T nghiêm khắc hơn so với các bị cáo khác. Bị cáo Lữ Văn Th1 là người có nhân thân xấu, đã từng bị Tòa án xử phạt tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Mặc dù đã được xóa án tích nhưng không lấy đó làm bài học tu dưỡng, rèn luyện bản thân mà nay lại tiếp tục phạm tội.

Ngày 30/9/2020, Tòa án nhân dân huyện Quỳ Châu xử phạt Lương Văn T 15 tháng cải tạo không giảm giữ về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 58/2020/HSST. Ngày 04/11/2020, Chánh án Tòa án nhân dân huyện Quỳ Châu đã ban hành Quyết định thi hành án số 83/2020/QĐ-CA và ngày 10/11/2020, UBND xã C, huyện Quỳ Châu đã nhận được Quyết định này. Như vậy, Lương Văn T đã thực hiện hành vi phạm tội mới trong khi đang chấp hành Bản án số 58/2020/HSST. Thời gian Lương Văn T chấp hành Bản án số 58/2020/HSST được tính từ ngày 10/11/2020 đến ngày 13/01/2021 là 02 tháng 03 ngày, thời gian còn lại là 12 tháng 27 ngày. Căn cứ Điều 55 BLHS, chuyển đổi mức hình phạt còn lại buộc Lương Văn T phải chấp hành 04 tháng 09 ngày tù. Áp dụng khoản 2 Điều 56 BLHS để tổng hợp hình phạt chung đối với hình phạt của bản án này.

Tuy nhiên, quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay các bị cáo đã thành khẩn khai báo. Bị cáo Lương Văn T có ông nội (Ông Lương Văn Ch) tham gia cách mạng và được tặng thưởng Huân chương giải phóng. Đó là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 - khoản 2 Điều 51 BLHS để xem xét giảm nhẹ phần nào về hình phạt cho các bị cáo khi lượng hình. Bị cáo Lương Văn T thực hiện hành vi phạm tội khi chưa đủ 18 tuổi, cần áp dụng Điều 91 và Điều 101 BLHS để xem xét quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[2.3] Hình phạt bổ sung: Xét thấy các bị cáo Lữ Văn Th1 và Lương Văn Th2 điều kiện kinh tế khó khăn và không có tài sản. Do đó không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo. Căn cứ khoản 6 Điều 91 BLHS, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với Lương Văn T.

[2.4] Về xử lý vật chứng: Cơ quan điều tra Công an huyện Quỳ Châu đã thu giữ của các bị cáo 0,17g Heroin và 01 chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA WinerX, BKS 37G1-16888.

Đối với số Heroin đã trích 0,08 gửi giám định, còn lại 0,09g Heroin cùng vỏ bao niêm phong vật chứng, cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA WinerX, BKS 37G1-16888, chiếc xe máy này là tài sản hợp pháp của bị cáo Lữ Văn Th1. Vì vậy, cần trả lại cho chủ sở hữu.

[3] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định.

Vì các lẽ trên 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 - khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 58; Điều 91; Điều 101 BLHS. Xử phạt: Lương Văn T 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Căn cứ khoản 2 Điều 56 BLHS, tổng hợp với hình phạt 15 (Mười lăm) tháng cải tạo không giam giữ về tội “Trộm cắp tài sản” (Đã thi hành 02 tháng 03 ngày, thời gian còn lại 12 tháng 27 ngày chuyển đổi thành 04 tháng 09 ngày tù) chưa chấp hành của Bản án số 58/2020/HSST ngày 30/9/2020 của Tòa án nhân dân huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 01 (Một) năm 10 (Mười) tháng 09 (Chín) ngày tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 13/01/2021.

- Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 58 Bộ luật hình sự . Xử phạt:

+ Lữ Văn Th1 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 13/01/2021.

+ Lương Văn Th2 01 (Một) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 13/01/2021.

- Căn cứ điều 106 BLTTHS. Tịch thu tiêu hủy 0,08g Heroin cùng vỏ bao niêm phong vật chứng. Trả lại cho bị cáo Lữ Văn Th1 chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA WinerX, BKS 37G1-16888 (Tất cả có đặc điểm như mô tả trong Biên bản giao, nhận vật chứng được lập vào hồi 14 giờ 30 phút ngày 24/3/2021 giữa Cơ quan điều tra và Chi cục thi hành án dân sự huyện Quỳ Châu).

- Căn cứ Điều 136 BLTTHS và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14. Buộc Lương Văn T - Lữ Văn Th1 và Lương Văn Th2 mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ án phí HSST - Các bị cáo được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

226
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 25/2021/HSST ngày 27/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:25/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳ Châu - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;