Bản án 25/2019/DS-ST ngày 19/04/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MANG THÍT- TỈNH VĨNH LONG

BẢN ÁN 25/2019/DS-ST NGÀY 19/04/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Vào ngày 19 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mang thít, tỉnh Vĩnh Long, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 348/2018/TLST- HNGĐ ngày 26 tháng 12 năm 2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 15/2019/QĐXX-ST ngày 06 tháng 3 năm 2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Trương Thị T, sinh 1981. Địa chỉ: Ấp Phú H, xã Nhơn P, huyện Mang Thít, tỉnh Vĩnh Long.

2. Bị đơn: Trần Thanh T, sinh 1978. Địa chỉ: Ấp Phú T, xã Nhơn P, huyện Mang Thít, tỉnh Vĩnh Long- vắng mặt không lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 25/12/2019, nguyên đơn Trương Thị T trình bày:

Vào năm 1999, chị Trương Thị T kết hôn với anh Trần Thanh T theo phong tục tập quán. Anh chị đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Nhơn P, huyện Mang Thít, tỉnh Vĩnh Long. Ngày 01/10/1999, anh chị được cấp giấy chứng nhận kết hôn mang số 48.

Sau khi kết hôn, anh chị sinh sống tại ấp Phú T, xã Nhơn P, huyện Mang Thít, tỉnh Vĩnh Long. Thời gian đầu sống hạnh phúc. Đến năm 2015 mâu thuẩn vợ chồng phát sinh, gây cãi thường xuyên dẫn đến mục đích hôn nhân không đạt được nên chị T về nhà cha mẹ ruột sinh sống và thật sự ly thân với anh T từ năm 2017 đến nay. Nhận thấy tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn, chị T khởi kiện xin ly hôn với anh T.

Chị T và anh T có 03 con chung, gồm: Cháu Trần Hoàng C, sinh ngày 18/9/1999; cháu Trần Hoàng T, sinh ngày 14/11/2004; cháu Trần Hoàng Anh T, sinh ngày 14/5/2009. Hiện nay các cháu sống chung với chị T. Khi ly hôn, chị T yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng cháu Hoàng T và cháu Anh T, không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung. Riêng đối với cháú Hoàng C đã trưởng thành và đủ khả năng lao động để sinh sống, không yêu cầu giải quyết việc người trực tiếp nuôi dưỡng. Chị T không yêu cầu chia tài sản chung.

Tòa án đã thông báo hợp lệ nhiều lần để anh T biết về các phiên họp về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải vụ án. Nhưng anh T đều vắng mặt không lý do, nên không tiến hành hòa giải vụ án.

Tại phiên tòa, chị T giữ nguyên ý kiến và yêu cầu đã nêu trong đơn khởi kiện.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về tố tụng:

1.1. Chị Trương Thị T khởi kiện xin ly hôn và nuôi con đối với Trần Thanh T có địa chỉ tại ấp Phú T, xã Nhơn P, huyện Mang Thít, tỉnh Vĩnh Long. Tòa án nhân dân huyện Mang Thít thụ lý giải quyết sơ thẩm và xác định tranh chấp ly hôn và nuôi con là đúng quy định tại điểm a khoản 1 Điều 39 và khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự.

1.2. Anh T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai để tham dự phiên tòa. Nhưng anh T đều vắng mặt không lý do và không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan, nên tiến hành xét xử vắng mặt anh T là đúng quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]. Về nội dung:

2.1. Quan hệ hôn nhân giữa chị T và anh T là hợp pháp. Tòa án bàn giao hợp lệ nhiều lần cho anh T thông báo thụ lý giải quyết vụ án, thông báo về các phiên họp, quyết định đưa vụ án ra xét xử, giấy triệu tập, quyết định hoãn phiên tòa. Nhưng anh T đều không tham dự các phiên họp, các phiên tòa và anh T không chứng cứ phản bác yêu cầu khởi kiện của chị T. Cho thấy anh T đã thừa nhận lời trình bày của chị T là đúng sự thật. Chứng minh được mục đích hôn nhân giữa chị T và anh T không thể đạt được, đời sống chung không thế kéo dài, chị T xin ly hôn với anh T là phù hợp với khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình nên có căn cứ chấp nhận.

2.2. Chị T và anh T có ba con chung, gồm: Cháu Trần Hoàng C, sinh ngày 18/9/1999; cháu Trần Hoàng T, sinh ngày 14/11/2004; cháu Trần Hoàng Anh T, sinh ngày 14/5/2009.

Cháu C đã trưởng thành và đủ khả năng lao động để sinh sống, chị T không yêu cầu giải quyết việc trực tiếp trông nom, chăm sóc, giaó dục là phù hợp pháp luật nên không xét.

Cháu T và cháu T đã trên 07 tuổi và đều có nguyện vọng sống với chị T, chị T đủ khả năng nuôi dưỡng hai cháu. Nên chị T yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng hai cháu là phù hợp với khoản 2 Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình nên có căn cứ chấp nhận.

2.3. Chị T không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung, nên không xét.

2.4. Chị T không yêu cầu chia tài sản chung, nên không xét.

[3]. Căn cứ vào khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, buộc chị T nộp 300.000đ án phí hôn nhân sơ thẩm là đúng quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 1 Điều 28; điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Áp dụng khoản 1 Điều 56; klhoản 2 Điều 81; Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình;

Căn cứ vào khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trương Thị T:

1. Hôn nhân:

Chị Trương Thị T được ly hôn với anh Trần Thanh T.

2. Con chung:

Giao chị Trương Thị T tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng cháu Trần Hoàng T, sinh ngày 14/11/2004; cháu Trần Hoàng Anh T, sinh ngày 14/5/2009.

Anh Trần Thanh T có quyền tới lui, thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung, không ai có quyền ngăn cản.

3. Cấp dưỡng nuôi con chung: Không xét.

3. Chia tài sản chung khi ly hôn: Không xét.

4. Án phí hôn nhân sơ thẩm:

Buộc chị Trương Thị T nộp 300.000đ ( ba trăm ngàn đồng). Chị T được khấu trừ từ 300.000đ ( ba trăm ngàn đồng) tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mang Thít ngày 26/12/2018, lai số 0006799. Chị T không phải nộp thêm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì nguời được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Án xử công khai sơ thẩm. Tuyên án có mặt nguyên đơn Trương Thị T, báo cho biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng bị đơn Trần Thanh T vắng mặt, báo cho biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15( mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

356
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 25/2019/DS-ST ngày 19/04/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:25/2019/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mang Thít - Vĩnh Long
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 19/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;