Bản án 179/2020/HS-PT ngày 27/04/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 179/2020/HS-PT NGÀY 27/04/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 27 tháng 4 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 130/2020/HSPT ngày 27/02/2020 đối với bị cáo Trần Thành A do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 07/2020/HS-ST ngày 20/01/2020 của Tòa án nhân dân huyện C.

Bị cáo có kháng cáo:

Trần Thành A, sinh năm 1972 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi thường trú:

xã B, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: kinh; tôn giáo: không; giới tính: nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Thành D và bà Nguyễn Thị E và 01 con sinh năm 1993; tiền án, tiền sự: không; bị bắt, tạm giam ngày 18/8/2019. (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 22/10/2007, Hồng Nhựt G đến công an xã Xuân Thới Đông tố cáo Trần Thành A có hành vi trộm cắp tài sản vào ngày 11/10/2007 tại nhà số 25/10A ấp Xuân Thới Đông 1, xã Xuân Thới Đông, huyện Hóc Môn. A đã lấy trộm 01 xe máy Honda Future biển số 52Y1-8146 và 01 ví tiền trong đó có 120.000 đồng, bản chính giấy đăng ký xe máy 52Y1-8146, giấy chứng minh nhân dân, giấy phép lái xe mang tên Hồng Nhựt G và giao nộp thư viết tay của Trần Thành A thừa nhận việc lấy trộm xe máy Honda Future biển số 52Y1-8146 mang đi thế chấp cho Nguyễn Văn Thắng lấy 20.000.000 đồng.

Sau khi thực hiện hành vi trộm cắp xe máy của G thì Trần Thành A bỏ trốn. Ngày 01/11/2008, căn cứ kết quả truy xét, Cơ quan điều tra khởi tố bị can, truy nã đối với Trần Thành A về hành vi “Trộm cắp tài sản”. Đến ngày 18/8/2019, Trần Thành A bị Công an huyện Bình Chánh bắt quả tang về hành vi “Đánh bạc” nên Cơ quan điều tra Công an huyện Hóc Môn phục hồi điều tra làm rõ hành vi trộm cắp xe gắn máy.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra, A khai nhận: Khoảng 22 giờ ngày 10/10/2007, Trần Thành A và Hồng Nhựt G (cả 2 quen nhau từ trước gặp nhau uống rượu tại phòng trọ của G và Sơn Thị H thuê tại nhà số 20/5A ấp Xuân Thới Đông 1, xã Xuân Thới Đông, huyện Hóc Môn. Khoảng 4 giờ ngày 11/10/2007, Trần Thành A thức dậy đi tiểu thấy xe máy Honda Future biển số 52Y1-8146 có gắn sẵn chìa khóa trên ổ khóa xe và ví tiền của Hồng Nhựt G để trên bàn. A kiểm tra ví thấy bên trong có 120.000 đồng, 15USD, Giấy CMND và 02 giấy phép lái xe mang tên Hồng Nhựt G, giấy đăng ký xe máy biển số 52Y1-8146 nên nảy sinh chiếm đoạt. Do Hồng Nhựt G và Sơn Thị H còn ngủ say nên A đã mở cửa phòng trọ rồi lần lượt lấy trộm ví (bóp) của G và dẫn xe máy Honda Future biển số 52Y1-8146 của G ra ngoài nổ máy bỏ đi. Đến khoảng 09 giờ ngày 11/10/2007, Trần Thành A điều khiển xe máy Honda Future biển số 52Y1-8146 lấy trộm được của Hồng Nhựt G đến khu vực chợ Phạm Văn Hai quận Tân Bình tìm gặp Nguyễn Văn Thắng làm nghề mua bán xe máy cũ để bán xe. Trần Thành A quen biết với Nguyễn Văn Thắng do đã nhiều lần mua xe máy của Thắng bán. Trần Thành A nói với Nguyễn Văn Thắng xe máy Honda Future biển số 52Y1-8146 là xe của A mua lại và đang cần tiền đặt cọc mua xe mới nên thế chấp xe Honda Future biển số 52Y1-8146 cùng bản chính giấy đăng ký xe để mượn 20.000.000 đồng. A và Thắng thỏa thuận việc thế chấp xe máy không có làm hợp đồng, số tiền 20.000.000 đồng từ việc cầm cố chiếc xe máy trộm của anh G để mua lô đề của một người không rõ nhân thân lai lịch tại khu vực chợ Lạc Quang, quận 12 nhưng bị thua hết 13.000.000đ và tiêu xài hết nên không có khả năng chuộc xe trả cho Hồng Nhựt G. Trần Thành A viết thư tay có nội dung thừa nhận việc lấy trộm xe máy Honda Future biển số 52Y1-8146 của G mang đi thế chấp cho Nguyễn Văn Thắng gửi cho Hồng Nhựt G để G biết đi chuộc lại xe.

Nguyễn Văn Thắng khai nhận: Thắng không biết xe máy Honda Future biển số 52Y1-8146 do Trần Thành A chiếm đoạt của người khác nên đã đồng ý nhận cầm cố xe này để cho A vay tiền. Thắng đã tự nguyện giao nộp xe máy cho Công an huyện Hóc Môn xử lý theo quy định pháp luật.

Vật chứng vụ án thu giữ gồm:

- Thư viết tay của Trần Thành A thừa nhận việc lấy trộm xe máy Honda Future biển số 52Y1-8146 của Hồng Nhựt G.

- Chiếc xe máy hiệu Honda Future biển số 52Y1-8146 có số khung 5016Y-307046 số máy C35E-0397058 và bản chính giấy đăng ký xe biển số 52Y1-8146 mang tên Hồng Nhựt G do Nguyễn Văn Thắng giao nộp. Cơ quan điều tra ra quyết định xử lý vật chứng trả cho Hồng Nhựt G. Hồng Nhựt G đã nhận lại xe máy Honda Future biển số 52Y1-8146, không có yêu cầu bồi thường. Riêng Nguyễn Văn Thắng có yêu cầu Trần Thành A bồi thường số tiền 20.000.000 đồng.

Tại Biên bản định giá tài sản ngày 24/12/2007, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự UBND huyện Hóc Môn kết luận: chiếc xe hai bánh gắn máy Honda Future biển số 52Y1-8146 trị giá 17.000.000 đồng.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 07/2020/HS-ST ngày 20/01/2020 của Tòa án nhân dân huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh đã QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Trần Thành A phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt Trần Thành A 20 (hai mươi) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 18/8/2019.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên giải quyết về dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 30/01/2020, bị cáo Trần Thành A có đơn kháng cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện C với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm ngày hôm nay, bị cáo Trần Thành A đã thừa nhận những hành vi phạm tội do bị cáo gây ra như nội dung bản án sơ thẩm đã nêu, bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt với lý do đã nhận thức được việc làm của mình là sai trái, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, mức án Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên là quá nặng.

Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xác định bản án sơ thẩm đã áp dụng đúng các căn cứ pháp luật để xử phạt bị cáo Trần Thành A về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, sau khi xét xử sơ thẩm bị cáo kháng cáo trong thời gian hợp lệ. Tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo hành vi phạm tội, thể hiện thái độ ăn năn hối cải mong muốn được hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt. Tuy nhiên, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự này đã được Tòa án cấp sơ thẩm xem xét, tại phiên tòa bị cáo cũng không nêu thêm được tình tiết nào mới, mức án 20 (hai mươi) tháng tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên là phù hợp. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Bị cáo Trần Thành A không tranh luận, chỉ nói lời sau cùng xin giảm nhẹ hình phạt để sớm được trở về gia đình, hòa nhập xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện C, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân huyện C, Kiểm sát viên, Tòa án nhân dân huyện C, Thẩm phán trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Tại các bản tự khai, biên bản ghi lời khai, bị cáo đều trình bày lời khai hoàn toàn tự nguyện, không bị ép cung, nhục hình. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa phúc thẩm ngày hôm nay, bị cáo Trần Thành A đã thừa nhận hành vi sai trái do bị cáo gây ra tương tự như nội dung bản án sơ thẩm đã nêu. Cụ thể: Khoảng 04 giờ 00 phút sáng ngày 11/10/2007, bị cáo đã có hành vi lén lút lấy trộm tài sản là 01 ví tiền bên trong có 120.000 đồng và 01 xe hai bánh gắn máy nhãn hiệu Honda Future biển số 52Y1-8146 trị giá 17.000.000 đồng của Hồng Nhựt Hải tại nhà số 20/5A ấp Xuân Thới Đông 1, xã Xuân Thới Đông, huyện C rồi đem đi cầm cố xe cho Nguyễn Văn Thắng lấy 20.000.000 đồng tiêu xài hết. Tổng trị giá tài sản bị cáo chiếm đoạt là 17.120.000 đồng (theo kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự của Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn ngày 24/12/2007).

Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và các tài liệu chứng cứ khác như các biên bản hoạt động điều tra, biên bản hỏi cung bị can, lời khai của các bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, vật chứng thu giữ… nên Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên xử bị cáo phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là đúng người, đúng tội, không oan sai.

[3] Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và xem xét cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như: quá trình điều tra và tại các phiên tòa đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và đã xem xét, đánh giá tính chất mức độ do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra. Từ đó, xử phạt bị cáo với mức án 20 (hai mươi) tháng tù là đã xem xét đầy đủ, toàn diện tính chất, mức độ vi phạm của bị cáo, tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra.

[4] Về kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, xét thấy ngoài các tình tiết giảm nhẹ mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét cho bị cáo theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự kể trên, thì bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ nào mới chưa được xem xét. Hành vi phạm tội của bị cáo không những xâm hại đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác mà còn xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội, mức án 20 (hai mươi) tháng tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên là phù hợp. Do đó, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên mức hình phạt mà bản án sơ thẩm đã tuyên.

Do không chấp nhận kháng cáo nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

Các vấn đề khác không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật. Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự; Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Thành A, giữ nguyên bản án sơ thẩm số 07/2020/HS-ST ngày 20/01/2020 của Tòa án nhân dân huyện C.

Tuyên bố bị cáo Trần Thành A phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt Trần Thành A 01 (một) năm 08 (tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 18/8/2019.

Bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự phúc thẩm. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

230
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 179/2020/HS-PT ngày 27/04/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:179/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;