Bản án 159/2018/DS-ST ngày 06/11/2018 về tranh chấp nợ hụi

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CÀ MAU, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 159/2018/DS-ST NGÀY 06/11/2018 VỀ TRANH CHẤP NỢ HỤI

Ngày 06 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 224/2018/TLST-DS ngày 10 tháng 7 năm 2018, về “tranh chấp nợ hụi” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 565/2018/QĐXXST-DS ngày 22 tháng 8 năm 2018 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Thái Mỹ H, sinh năm: 1945 (có mặt). Địa chỉ cư trú: ẤpTH, xã LVL, thành phố C, tỉnh M.

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Trọng K, sinh năm: 1980 ( vắng mặt). Địa chỉ cư trú: ẤpTH, xã LVL, thành phố C, tỉnh M.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện, bản tự khai và tại phiên tòa, bà Thái Mỹ H trình bày: Ngày 09/11/2016 âm lịch, ông K có mở 01 dây hụi 2.000.000 đồng, gồm 26 chân, mỗi tháng khui 01 kỳ vào ngày 09 âl hàng tháng. Bà tham gia chơi 01 chân, đã khui được 17 kỳ và bà chưa hốt hụi, đến ngày ông K tuyên bố đình hụi ông còn nợ lại bà số tiền 34.000.000 đồng.

Ngày 26/01/2017 âm lịch, ông K có mở 01 dây hụi 500.000 đồng gồm 53 chưng mỗi tháng khui 03 lần vào các ngày 06, 16, 26 âl hàng tháng, bà tham gia chơi 02 chân hụi và và đã hốt 01 chân hụi, dây hụi khui được 42 kỳ, số tiền thực đóng và tiền lãi hụi ông K còn nợ lại bà là 21.000.000 đồng, bà còn nợ lại ông K 03 kỳ hụi chết là 3.000.000 đồng đến ngày ông K tuyên bố đình hụi sau khi đối trừ ông K còn nợ lại bà số tiền 18.000.000 đồng.

Ngày 15/8/2017 âm lịch, ông K mở 01 dây hụi, gồm 31 chưng, loại hụi 1.000.000đ, mỗi tháng khui 02 lần vào ngày 15 và 30 âm lịch hàng tháng. Bà tham gia chơi 02 chân và chưa hốt, đến ngày ông K đình hụi dây hụi khui được 13 kỳ và còn nợ lại bà số tiền 26.000.000 đồng.

Ngày 22/8/2017 âm lịch, ông K mở 01 dây hụi gồm 15 chưng, loại hụi 5.000.000đ, mỗi tháng khui 01 kỳ vào ngày 22 âm lịch hàng tháng. Bà tham gia chơi 01 chân và chưa hốt, đến ngày ông K tuyên bố đình hụi dây hụi khui được hai kỳ số tiền ông K còn nợ lại bà là 10.000.000 đồng.

Đến ngày 11/3/2018 bà và ông K có gặp nhau và chốt nợ hụi lại, ông K có làm biên nhận nợ và hứa sẽ thanh toán cho bà tất cả các khoản nợ tổng cộng là 88.000.000 đồng nhưng bà có nhiều lần đến gặp ông K để yêu cầu trả mà ông K vẫn không trả.

Từ nội dung trên, bà yêu cầu ông K phải có nghĩa vụ thanh toán cho bà tổng các khoản 88.000.000đ tiền hụi.

Đối với ông Nguyễn Trọng K, mặc dù đã được Tòa án niêm yết công khai thông báo thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ, phiên họp hoà giải và xét xử nhiều lần nhưng ông K vẫn không có ý kiến phản hồi, đồng thời cũng không có mặt tại phiên tòa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Tại phiên tòa Đại diện Viện iểm sát phát biểu: Thẩm phán, thư ký, Hội đồng xét xử, chấp hành đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Về nội dung vụ án: Căn cứ vào Điều 471 Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 26, 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 đề chị chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn buộc ông K trả cho bà H số tiền 88.000.000đ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 [1] Về tố tụng: Các bên đương sự bắt đầu phát sinh giao dịch từ ngày 09/11/2016 đến ngày 11/3/2018 các bên kết nợ lại, nguyên đơn khởi kiện để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm nên thời hiệu khởi kiện vẫn đảm bảo theo quy định tại Điều 429 Bộ luật dân sự 2015. Về thẩm quyền và loại việc các bên tranh chấp là giao dịch hụi nên loại việc tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 3 Điều 26, khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về việc vắng mặt của đương sự: Quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn có mặt; đối với bị đơn ông Nguyễn Trọng K, mặc dù đã được Tòa án niêm yết công khai thông báo thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ, phiên họp hoà giải và xét xử nhiều lần nhưng ông K vẫn không có ý kiến phản hồi, đồng thời cũng không có mặt tại phiên tòa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Do đó, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt ông K theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự là phù hợp.

[2] Về nội dung: Quan hệ pháp luật tranh chấp giữa nguyên và bị đơn đặt ra được xác định là giao dịch về hụi. Quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn khai có tham gia các dây hụi do bị đơn làm chủ, ngoài ra qua các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ thể hiện bà H có tham gia các dây hụi do bị đơn làm chủ. Trong quá trình giao dịch ông K tuyên bố đình hụi và còn nợ lại bà tổng số tiền là 88.000.000 đồng, mặc khác qua các biên bản xác minh đối với những người tham gia hụi do ông K làm chủ chứng minh được việc giao dịch hụi giữa các bên là thực tế có xảy ra. Tại biên nhận ngày 03 tháng 3 năm 2018 ông K và bà H cũng đã cùng nhau tổng kết nợ ông K thừa nhận còn nợ và sẽ thanh toán cho bà H số tiền 88.000.000 đồng. Sự thừa nhận và thống nhất này của đôi bên là hoàn toàn tự nguyện và phù hợp với các tài liệu chứng cứ có tại hồ sơ vụ án nên có cơ sở để chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Như vậy, tổng các khoản nợ hụi buộc ông K có nghĩa vụ thanh toán cho bà H là 88.000.000đ.

Ông K có nghĩa vụ thực hiện việc thanh toán nợ cho bà H nên phải chịu án phí theo quy định của pháp luật; bà H không phải chịu án phí.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ các Điều 471 Bộ luật dân sự 2015;

- Căn cứ Nghị định số 144/2006/NĐ-CP của Chính phủ;

- Căn cứ các Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Căn cứ khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

1/ Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn bà Thái Mỹ H buộc bị đơn ông Nguyễn Trọng K có nghĩa vụ thanh toán cho bà H tổng số tiền 88.000.000đ (Tám mươi tám triệu đồng).

Kể từ ngày bà H có đơn yêu cầu thi hành án, nếu ông K không tự nguyện thi hành xong khoản tiền nêu trên, thì hàng tháng phải chịu thêm khoản lãi phát sinh theo mức lãi suất được quy định tại Điều 468 của Bộ luật dân sự 2015 tương ứng với số tiền và thời gian chậm trả tại thời điểm thi hành án.

2/ Án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch buộc ông K phải chịu 4.400.000đ (chưa nộp). Bà H không phải chịu, ngày 05 tháng 7 năm 2018, bà H đã nộp tạm ứng án phí 2.200.000đ theo biên lai số 1013 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Cà Mau được được hoàn lại khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Bà H có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Ông K được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

316
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 159/2018/DS-ST ngày 06/11/2018 về tranh chấp nợ hụi

Số hiệu:159/2018/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cà Mau - Cà Mau
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 06/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;