Bản án 15/2020/DSST ngày 09/06/2020 về tranh chấp dân sự hợp đồng vay tài sản  

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 15/2020/DSST NGÀY 09/06/2020 VỀ TRANH CHẤP DÂN SỰ HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 09 tháng 6 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu T, tỉnh Tây N xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 354/2019/TLST-DS ngày 15 tháng 10 năm 2019 về tranh chấp dân sự “Hợp đồng vay tài sản” theo Quyết Đ đưa vụ án ra xét xử số 09/2020/QĐXX-ST ngày 18 tháng 02 năm 2020, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Cao Văn N - sinh năm 1979;

Địa chỉ cư trú: Tổ 4, ấp Phước T, xã Phước V, huyện Châu T, tỉnh Tây N. (vắng mặt)

Bị đơn: Anh Lê Phước Đ - sinh năm 1980 Địa chỉ cư trú: Tổ 1, ấp Phước L, xã Phước V, huyện Châu T, tỉnh Tây N. Chỗ ở: Tố 6, ấp 3, xã Phước V, huyện Châu T, tỉnh Tây N. (có mặt)

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Văn N - 1964 Địa chỉ cư trú: Tổ 8, ấp Phước T, xã Phước V, huyện Châu T, tỉnh Tây N. (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 10/10/2019 và các lời khai trong qúa trình giải quyết vụ án, nguyên đơn anh Cao Văn N trình bày: Do quen biết chòm xóm với nhau nhiều năm, vào ngày 05/3/2018, anh Đ có vay của anh số tiền 80.000.000 đồng có giấy mượn tiền, hai bên thỏa thuận miệng lãi suất 0,2%/tháng và hứa trong vòng 7 ngày sẽ trả nhưng không trả mà hẹn nhiều lần. Từ ngày vay anh Đ trả được 2.000.000 đồng tiền lãi, nay yêu cầu anh Đ trả số tiền vốn 80.000.000 đồng và tiền lãi là 12.000.000 đồng, đã trả 2.000.000 đồng, còn 10.000.000 đồng. Mẫu giấy cho mượn tiền do ông N đánh máy cho anh, ông N giữ mẫu giấy đó, ông N và anh Đ tự viết giấy nợ và ký nhận với nhau anh không biết, anh Đ vay tiền của anh giấy nợ anh còn giữ, giữa anh Đ và anh N lập thêm giấy nợ rồi anh Đ đưa tiền cho ông N nhận 80.000.000 đồng thì giữa anh Đ và ông N tính toán với nhau, ông N chịu trách nhiệm về số tiền của anh Đ, còn anh Đ nợ anh chưa trả, anh yêu cầu anh Đ trả cho anh vốn 80.000.000 đồng và tiền lãi 10.000.000 đồng, tổng cộng vốn lãi là 90.000.000 đồng.

Bị đơn anh Lê Phước Đ trình bày: Anh thừa nhận anh có vay tiền của anh N số tiền 80.000.000 đồng thời gian không nhớ để đáo hạn Ngân hàng. Theo giấy nợ gốc anh N cung cấp anh được xem thì giấy nợ ghi ngày 5/3/2018 là đúng chữ ký và chữ viết của anh. Khoảng tháng 12/2018 ông N đến nhà anh nhận 80.000.000 đồng tiền gốc nói là anh N nhờ lấy, nên anh đưa cho anh N nhận để trả cho anh N, anh chỉ còn nợ tiền lãi chưa tính với anh N. Nay anh N tính lãi suất và trừ 2.000.000 đồng, còn yêu cầu 10.000.000 đồng thì anh đồng ý còn nợ anh N 10.000.000 đồng tiền lãi. Khi anh ký giấy vay tiền thì có ký 02 giấy nợ do anh N đưa, có ông N ký trong giấy nợ người làm chứng, anh đã đưa cho ông N 80.000.000 đồng để trả cho anh N, anh chỉ còn nợ tiền lãi, anh đồng ý trả 10.000.000 đồng tiền lãi, không đồng ý trả vốn.

Tại lời khai ngày 28/10, ngày 18/11/2019 và ngày 16/01/2020 ông Nguyễn Văn N trình bày: Ông thừa nhận ông có nhận 80.000.000 đồng của anh Đ đưa cho ông để trả cho anh N, khi ông nhận tiền của anh Đ ông có ký tên nhận tiền giấy nợ anh N đưa và giao giấy cho anh Đ giữ. Sau đó ông đưa tiền ngay cho anh N ngày tháng ông không nhớ, chỉ đưa không ký nhận gì, còn giữa anh Đ và anh N làm giấy như thế nào ông không biết. Ông thừa nhận ông có đánh máy mẫu giấy cho vay tiền cho anh N để anh N làm dịch vụ.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu T phát biểu ý kiến:

- Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa thực hiện đúng trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, Những người tham gia tố tụng đều thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về nội dung: Căn cứ vào Điều 463, 466, 468, 469 của Bộ luật dân sự 2015;

Nghị quyết số 326 về án phí lệ phí: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc bị đơn trả cho nguyên đơn số tiền vốn 80.000.000 đồng, lãi 10.000.000 đồng, tổng cộng 90.000.000 đồng, bị đơn phải chịu án phí theo quy Đ. Anh Đ và ông N có tranh chấp số tiền 80.000.000 đồng được giải quyết bằng một vụ án khác theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Anh Cao Văn N là nguyên đơn vắng mặt có đơn, ông N là người có quyền L nghĩa vụ liên quan vắng mặt không có lý do, nên căn cứ vào Điều 228, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt họ.

[2]. Về nội dung: Giữa anh N và ông N cùng anh Đ có giao dịch làm ăn liên quan với nhau về tiền bạc là có thật.

Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Anh N yêu cầu anh Đ trả số tiền vốn 80.000.000 đồng, lãi 10.000.000 đồng, tổng cộng 90.000.000 đồng. Anh Đ thừa nhận có vay 80.000.000 đồng nhưng đã đưa tiền cho ông N nhận để trả cho anh N số tiền 80.000.000 đồng, nay chỉ đồng ý trả tiền lãi 10.000.000 đồng, không đồng ý trả vốn.

Thấy rằng: Theo giấy cho mượn tiền ngày 5/3/2018, anh Đ mượn của anh N số tiền 80.000.000 đồng, không ghi thời hạn trả tiền và lãi suất. Theo anh N khai khi anh cho anh Đ mượn tiền, hai bên tự thỏa thuận miệng lãi suất 0,2%/tháng, trong vòng 7 ngày trả vốn, anh Đ có trả được 2.000.000 đồng tiền lãi. Tại phiên tòa, anh Đ khai hai bên thỏa thuận 3.000 đồng/ngày là 7.200.000đồng/tháng, anh đã trả nhiều lần không nhớ số tiền, ngày tháng trả và không có giấy tờ ký nhận gì. Anh Đ thừa nhận giấy mượn tiền ngày 5/3/2018 do anh N cung cấp bản chính là do anh viết và ký tên, nhưng cho rằng anh đã đưa tiền cho ông N ký nhận 80.000.000 đồng để trả cho anh N, ông N có đưa giấy anh vay của anh N bản chính cho anh giữ, còn giấy nợ anh N cung cấp là anh ký nợ để cho anh N tính tiền lãi, hiện anh chỉ còn nợ tiền lãi là không phù hợp. Vì giấy nợ bản chính anh N cung cấp thể hiện anh N (Bên A) anh Đ bên mượn (Bên B) mượn tiền của anh N số tiền vốn 80.000.000 đồng, có ghi tên bên làm chứng (Bên B) là tên ông N, ông N không ký tên và người cho vay (Bên A) anh N không ký tên, còn giấy nợ anh Đ cung cấp bản phô tô thể hiện anh Đ ký tên mượn tiền của anh N ngày 5/3/2018 số tiền 80.000.000 đồng, có bên làm chứng ông N ký tên, người cho mượn anh N không ký tên, mặt sau của giấy có ông N ký tên người làm chứng, ông N ký nhận lại của anh Đ 80.000.000 đồng vào ngày 7/4/2018, không thể hiện nội dung trả tiền cho anh N mà là sự giao dịch giữa anh Đ và ông N, ngoài số tiền ông N nhận của anh Đ 80.000.000 đồng thì ông N còn ký nhận lại của anh Đ 30.000.000 đồng ngày 3/4/2018 trước ngày ông N nhận 80.000.000 đồng. Do đó, anh Đ còn nợ anh N số tiền vốn 80.000.000 đồng.

Về lãi suất, anh N và anh Đ khai không thống nhất nhau, anh N yêu cầu anh Đ trả 10.000.000 đồng, đã trừ 2.000.000 đồng tiền lãi anh N đã nhận của anh Đ. Anh Đ đồng ý trả lãi suất theo yêu cầu của anh N, lúc thì khai đồng ý trả theo thỏa thuận là không phù hợp mức lãi suất quy Đ, tiền lãi tính từ ngày vay theo pháp luật quy định cao hơn số tiền anh N yêu cầu, nhưng anh N chỉ yêu cầu 10.000.000 đồng là có L cho anh Đ. Do đó, cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh N, buộc anh Đ có nghĩa vụ trả cho anh N số tiền 90.000.000 đồng (vốn 80.000.000 đồng, lãi 10.000.000 đồng).

[3]. Ông N thừa nhận có nhận của anh Đ số tiền 80.000.000 đồng và khai đã trả cho anh N, nhưng không được anh N chấp nhận, ông N không có chứng cứ chứng minh đã giao cho anh N. Nên giữa anh Đ và ông N nếu có phát sinh tranh chấp số tiền ông N nhận của anh Đ 80.000.000 đồng, được giải quyết bằng một vụ án khác khi có yêu cầu theo quy định của pháp luật.

[4]. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có cơ sở phù hợp với những tình tiết nêu trên.

[5]. Về án phí sơ thẩm: Yêu cầu của nguyên đơn được Tòa án chấp nhận, theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí và lệ phí Tòa án, bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm 4.500.000 đồng. Hoàn trả lại tiền tạm ứng án phí cho nguyên đơn đã nộp khi khởi kiện.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 228, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào Điều 463, 466, 468, 469 của Bộ luật Dân sự 2015; Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30.12.2016 quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện về tranh chấp dân sự “Hợp đồng vay tài sản” của anh Cao Văn N đối với anh Lê Phước Đ.

2. Buộc anh Lê Phước Đ có nghĩa vụ trả cho anh Cao Văn N số tiền 90.000.000 đồng (vốn 80.000.000 đồng, lãi 10.000.000 đồng).

Khi án có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày có đơn yêu cầu Thi hành án của người được thi hành án, hàng tháng người phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi đối với số tiền chưa thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự 2015.

3. Giữa anh Lê Phước Đ và ông Nguyễn Văn N nếu có phát sinh tranh chấp số tiền ông N nhận của anh Đ 80.000.000 đồng, được giải quyết bằng vụ án khác khi có yêu cầu theo quy định của pháp luật.

4. Về án phí: Anh Lê Phước Đ phải chịu 4.500.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Anh Cao Văn N không phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm, Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu T, tỉnh Tây N hoàn trả lại cho anh Cao Văn N số tiền tạm ứng án phí đã nộp 2.250.000 đồng theo biên lai thu số 0006391 ngày 15/10/2019.

5. Quyền kháng cáo: Anh Đ được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây N trong hạn 15 ngày kể từ tuyên án. Riêng các đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp, bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

275
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 15/2020/DSST ngày 09/06/2020 về tranh chấp dân sự hợp đồng vay tài sản  

Số hiệu:15/2020/DSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Tây Ninh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 09/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;