Bản án 131/2021/HS-ST ngày 24/09/2021 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BẾN CÁT, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 131/2021/HS-ST NGÀY 24/09/2021 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 24 tháng 9 năm 2021 tại Tòa án nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 148/2021/HSST ngày 30 tháng 7 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 129/2021/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 9 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Hồ Sỹ H, sinh năm 1994 tại tỉnh Hà Tĩnh; đăng ký thường trú: Thôn T An, xã Hồng Lộc, huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh; chổ ở: Ấp Tân Lập, xã An Điền, thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hồ Sỹ D và bà Phan Thị H1; tiền án, tiền sự: không; bị cáo bị tạm giam từ ngày 07/3/7/2021 đến ngày 16/3/2021 thay đổi biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt.

2. Lê Đức S, sinh năm: 1984 tại tỉnh Bình Dương; đăng ký thường trú: Ấp Kiến An, xã An Điền, thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Đức L và bà Nguyễn Thị C; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giam từ ngày 07/3/2021 đến ngày 16/3/2021 thay đổi biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt.

Nhân thân: Ngày 13/4/2004 bị Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương xử phạt 02 (hai) năm tù về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”, bị cáo chấp hành xong 30/9/2005.

3. Lê Văn H2, Sinh năm 1998 tại Bình Dương; đăng ký thường trú: Ấp Kiến An, xã An Điền, thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn C và bà Cao Thị H3; tiền án, tiền sự: không; Bị cáo bị tạm gian từ ngày 07/3/2021 đến ngày 16/3/2021 thay đổi biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt.

4. Mai Quang C2, Sinh năm: 1985 tại tỉnh Hà Tĩnh; đăng ký thường trú: Thôn Trung Sơn, xã Hồng Lộc, huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh; chổ ở: Khu phố 3, phường Mỹ Phước, thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Mai Đại T và bà Phan Thị L1; bị cáo có vợ là Hồ Thị L2 và 02 con; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ từ ngày 07/3/2021 đến ngày 16/3/2018 thay đổi biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt.

5. Dương Đình H4, Sinh năm 1993 tại tỉnh Hà Tĩnh; đăng ký thường trú: thôn P, xã Hồng Lộc, huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh; chổ ở: ấp Tân Lập, xã An Điền, thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: công nhân; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Dương Văn H4 và bà Hồ Thị N; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ từ ngày 07/3/2021 đến ngày 16/3/2021 thay đổi biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 02 giờ 20 phút ngày 07/3/2021, Công an xã An Điền nhận được tin báo của quần chúng nhân dân tại nhà ông Hồ Sỹ Tuân ở ấp Kiến An, xã An Điền, thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương có một nhóm đối tượng tổ chức đánh bạc dưới hình thức chơi bài cào ba lá thắng thua bằng tiền. Sau khi nhận được tin báo Công an xã An Điền tiến hành kiểm tra hành chính bắt quả tang: Hồ Sỹ H, Lê Văn H2, Mai Quang C2, Dương Đình H4 đang đánh bài thắng thua bằng tiền nên tiến hành bắt giữ và thu giữ vật chứng:

+ Thu giữ 3.700.000 đồng trên chiếu bạc.

+ Thu giữ 2.400.000 đồng trên người Dương Đình H4.

+ Thu giữ 22.500.000 đồng trên người Hồ Sỹ H + Thu giữ 3.000.000 đồng trên người Lê Văn H2 + Thu giữ 01 bộ bài tây 52 lá đã qua sử dụng.

Quá trình điều tra Hồ Sỹ H, Lê Văn H2, Mai Quang C2, Dương Đình H4, Lê Đức S khai nhận:

Khoảng 02 giờ ngày 07/3/2021, H, H2, C2, H4, S đang có mặt tại đám tang nhà anh Hồ Sỹ Tuân trong lúc đang ăn có một nhóm đối tượng không rõ nhân thân lại lịch đang ngồi chơi bài cào ba lá. Sau đó, H, C2, H2 và H4 vào tham gia chơi, khi vào chơi H làm cái cho C2, H2, H4 mỗi ván đặt cược từ 50.000 đồng đến 300.000 đồng. Hình thức chơi bài cào ba lá như sau: người làm cái dùng bộ bài tây 52 lá chia đều cho các tụ chơi, mỗi tụ có 03 lá bài. Sau khi mở bài xem, từng người chơi đếm nút 03 lá bài và so thắng thua với tụ người làm cái, nếu tụ người làm cái có bài lớn hơn thì thắng số tiền người chơi đặt cược, nếu tụ người làm cái có bài nhỏ hơn thì chung bằng số tiền tụ người chơi đặt. Cách tính điểm như sau: Các lá bài A, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9 mỗi lá có số điểm tương ứng từ 1 đến 9; các lá bài 10, J, Q, K mỗi lá tính 0 điểm; cộng 3 lá bài lại với nhau, lớn nhất là ba lá bài giống nhau, kế tiếp là ba lá bài liên tiếp nhau, đến ba tây (J, Q, K), tiếp đến từ 9 điểm đến 1 điểm.

Số tiền mang theo dùng để đánh bạc, thắng thua của từng đối tượng cụ thể như sau:

- Hồ Sỹ H: mang theo số tiền 20.400.000 đồng sử dụng hết vào mục đích đánh bạc, H làm cái nhiều ván thắng được số 3.800.000 đồng. H bỏ số tiền 2.100.000 vào chung với số tiền 20.400.000 đồng vào trong túi quần H đang mặc, còn 1.700.000 đồng H cầm trên tay khi Công an đến bắt H bỏ số tiền 1.700.000 đồng lên chiếu bạc. Tổng số tiền H dùng vào mục đích đánh bạc là 24.200.000 đồng.

- Dương Đình H4: mang theo số tiền 2.600.000 đồng, sử dụng hết vào mục đích đánh bạc, H4 tham gia chơi nhiều ván đặt cược từ 200.000 đồng đến 300.000 đồng thắng được số tiền 700.000 đồng. H4 để số tiền 2.400.000 đồng vào trong túi quần, còn số tiền 900.000 đồng, H4 cầm trên tay khi Công an đến bắt H4 bỏ số tiền 900.000 đồng trên chiếu bạc. Tổng số tiền H4 dùng vào mục đích đánh bạc là 3.300.000 đồng.

- Mai Quang C2: mang theo số tiền 300.000 đồng, sử dụng hết vào mục đích đánh bạc 300.000 đồng, C2 tham gia chơi nhiều ván đặt cược từ 50.000 đồng đến 200.000 đồng không thắng không thua. Khi Công an bắt C2 bỏ toàn bộ số tiền 300.000 đồng trên chiếu bạc. Tổng số tiền C2 dùng vào mục đích đánh bạc là 300.000 đồng.

- Lê Văn H2: mang theo số tiền 4.000.000 đồng, H2 lấy ra 1.000.000 đồng dùng vào mục đích đánh bạc còn 3.000.000 đồng, H2 không dùng vào mục đích đánh bạc, H2 tham gia đặt cược nhiều ván từ 200.000 đồng đến 300.000 đồng thua 200.000 đồng. Khi Công an bắt H2 bỏ toàn bộ số tiền 800.000 đồng trên chiếu bạc, bị Công an thu giữ 3.000.000 đồng trong túi quần. Tổng số tiền H2 dùng vào mục đích đánh bạc là 1.000.000 đồng.

- Lê Đức S: là người không dùng tiền trực tiếp đánh bạc. S ngồi xem đánh bạc thấy H làm cái thua, S phụ giúp H chia bài. Khi Công an đến bắt S bỏ chạy thoát, ngày hôm sau S được Công an mời lên làm việc và thừa nhận toàn bộ hành vi đánh bạc của mình.

Tổng số tiền Hồ Sỹ H, Lê Văn H2, Mai Quang C2, Dương Đình H4, Lê Đức S dùng vào mục đích đánh bạc 28.600.000 đồng.

Tại bản Cáo trạng số 144/CT-VKS ngày 30/7/2021 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương truy tố các bị cáo Hồ Sũ H, Lê Đức S, Lê Văn H2, Mai Quang C2 và Dương Đình H4 về tội “Đánh bạc” quy định tại khoản 1 Điều 321.

Tại phiên tòa, các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng nêu trên và không có ý kiến gì khác.

Tại phần tranh luận:

- Kiểm sát viên đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát trình bày luận tội:

Giữ nguyên quyết định truy tố của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát tại Cáo trạng số 144/CT-VKS ngày 30/7/2021 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương đối với các bị cáo;

Đề nghị Hội đồng xét xử:

Căn cứ khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự năm 2015; điểm i, s khoản 1, Điều 51; Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015:

Xử phạt bị cáo Hồ Sỹ H từ 40.000.000 đồng đến 45.000.000 đồng. Xử phạt bị cáo Lê Văn H2 từ 30.000.000 đồng đến 35.000.000 đồng.

Xử phạt bị cáo Mai Quang C2 từ 25.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng. Xử phạt bị cáo Dương Đình H4 từ 35.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng.

Căn cứ khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự năm 2015; điểm s khoản 1, Điều 51; Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015:

Xử phạt bị cáo Lê Đức S từ 06 đến 08 tháng tù.

Các bị cáo không phát biểu ý kiến tranh luận với Kiểm sát viên và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đồng ý với quyết định truy tố, điều khoản áp dụng và xử lý vật chứng của đại diện Viện Kiểm sát.

Các bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt, các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình, các bị cáo hứa sẽ không vi phạm nữa và sẽ cố gắng làm công dân tốt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Bến Cát, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là đúng quy định pháp luật.

[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Tại phiên tòa, các bị cáo khai nhận: Khoảng 02 giờ 20 phút, ngày 07/3/2021, tại đám tang nhà anh Hồ Sỹ Tuấn ở ấp Kiến An, xã An Điền, thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương, Công an xã An Điền kiểm tra hành chính bắt quả tang Hồ Sỹ H, Lê Văn H2, Mai Quang C2, Dương Đình H4, Lê Đức S có hành vi đánh bài cào ba lá thắng thua bằng tiền với tổng số tiền dùng vào mục đích đánh bạc là 28.600.000 đồng.

Số tiền từng bị cáo dùng để đánh bạc cụ thể như sau: Hồ Sỹ H 24.200.000 đồng; Dương Đình H4 3.300.000 đồng; Mai Quang C2 300.000 đồng; Lê Văn H2 1.000.000 đồng; Lê Đức S không dùng tiền trực tiếp đánh bạc nhưng S phụ H chia bài giúp H.

Do đó, hành vi mà các bị cáo Hồ Sỹ H, Dương Đình H4, Mai Quang C2, Lê Văn H2 và Lê Đức S thực hiện đã đủ yếu tố cấu thành tội “đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự 2015.

Do đó, Cáo trạng số 144/CT-VKS ngày 30/7/2021 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát và kết luận của Kiểm sát viên đề nghị truy tố các bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật; các bị cáo hoàn toàn đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến nếp sống văn minh, gây tác hại xấu đến trật tự công cộng và an toàn xã hội. Về nhận thức, các bị cáo hoàn toàn biết hành vi đánh bạc là trái pháp luật nhưng vì ý thức xem thường pháp luật nên các bị cáo đã cố tình thực hiện. Do đó, cần phải có một mức hình phạt tương xứng với tính chất và mức độ phạm tội của các bị cáo để răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

Các bị cáo tham gia đánh bạc với tính chất đồng phạm giản đơn, cùng tham gia thực hiện nên xét về tính chất thì các bị cáo có vai trò tương đương nhau nhưng số tiền dùng để đánh bạc khác nhau nên phải chịu mức hình phạt tương ứng;

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo Hồ Sỹ H, Lê Văn H2, Mai Quang C2, Dương Đình H4 được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ là: phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải theo quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; Đối với bị cáo Lê Đức S được áp dụng tình tiết giảm nhẹ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

Đối chiếu hành vi phạm tội của các bị cáo với quy định của pháp luật, đồng thời có xem xét đến các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo, Hội đồng xét xử thấy cần xử phạt bị cáo một mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội của các bị cáo nhằm răn đe, giáo dục đối với các bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.

Từ các nhận định trên, xét đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát về tội danh, điều khoản, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo là có căn cứ và phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Đối với phần hình phạt đề nghị áp dụng đối với bị cáo H là có căn cứ và phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Đối với hình phạt đề nghị áp dụng đối với các bị cáo H2, C2 và H4 là nặng so với tính chất, mức độ phạm tội của các bị cáo nên Hội đồng xét xử không chấp nhận, cần xử phạt các bị cáo mức hình phạt nhẹ hơn so với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.

Đối với hình phạt đề nghị áp dụng đối với bị cáo S là nặng so với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo nên Hội đồng xét xử không chấp nhận. Bị cáo S từng chấp hành hình phạt tù nhưng về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” chứ không phải về tội “Đánh bạc” và thời gian bị cáo chấp hành xong hình phạt tù từ tháng 9/2005, bị cáo đã có một thời gian dài để cải tạo, thử thách; trong vụ án này bị cáo có vai trò không đáng kể (chỉ chia bài phụ bị cáo H 3 đến 4 ván), bị cáo tham gia đánh bạc không nhằm mục đích trục lợi vật chất.

Ngoài ra, bị cáo S đã ly hôn, bị cáo đang nuôi con nhỏ còn đang đi học, bị cáo S là lao động chính trong gia đình (có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã An Điền, thị xã Bến Cát), nếu bắt bị cáo S chấp hành hình phạt tù sẽ ảnh hưởng đến việc nuôi dạy con của bị cáo.

Từ những nhận định, phân tích trên. Hội đồng xét xử xét thấy không cần phải áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo S mà chỉ cần áp dụng hình phạt tiền đã đủ sức răn đe, giáo dục bị cáo S để trở thành công dân tốt, sống có ích cho xã hội.

[4] Về biện pháp tư pháp: Tịch thu tiêu hủy phương tiện phạm tội: 01 bộ bài tây 52 lá đã qua sử dụng.

Tịch thu Sung quỹ nhà nước số tiền 28.600.000 đồng các bị cáo sử dụng làm phương tiện phạm tội.

Trả lại bị cáo Lê Văn H2 số tiền 3.000.000 đồng, do số tiền này không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo.

Về án phí: Buộc các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định. Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo Hồ Sỹ H, Dương Đình H4, Mai Quang C2, Lê Văn H2 và Lê Đức S phạm tội “Đánh bạc”.

2. Về hình phạt:

Căn cứ khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự năm 2015; điểm i, s khoản 1, Điều 51; Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đối với các bị cáo Hồ Sỹ H, Lê Đức S, Lê Văn H2, Mai Quang C2 và Dương Đình H4:

Xử phạt bị cáo Hồ Sỹ H số tiền 40.000.000 đồng.

Xử phạt bị cáo Lê Văn H2 số tiền 25.000.000 đồng.

Xử phạt bị cáo Mai Quang C2 số tiền 22.000.000 đồng. Xử phạt bị cáo Dương Đình H4 30.000.000 đồng.

Căn cứ khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự năm 2015; điểm s khoản 1, Điều 51; Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đối với bị cáo Lê Đức S:

Xử phạt bị cáo Lê Đức S số tiền 25.000.000 đồng.

3. Về biện pháp ngăn chặn:

Hủy bỏ biện pháp ngăn chặn đối với bị cáo Hồ Sỹ H theo lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 210/LCCC-TA ngày 30/7/2021 của Tòa án nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương.

Hủy bỏ biện pháp ngăn chặn đối với bị cáo Lê Đức S theo lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 211/LCCC-TA ngày 30/7/2021 của Tòa án nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương.

Hủy bỏ biện pháp ngăn chặn đối với bị cáo Lê Văn H2 theo lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 212/LCCC-TA ngày 30/7/2021 của Tòa án nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương.

Hủy bỏ biện pháp ngăn chặn đối với bị cáo Mai Quang C2 theo lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 214/LCCC-TA ngày 30/7/2021 của Tòa án nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương.

Hủy bỏ biện pháp ngăn chặn đối với bị cáo Dương Đình H4 theo lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 215/LCCC-TA ngày 30/7/2021 của Tòa án nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương.

4. Về biện pháp tư pháp: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015:

Tịch thu tiêu hủy: 01 bộ bài tây đã qua sử dụng.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 06/9/2021 giữa Công an thị xã Bến Cát với Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Bến Cát).

Trả lại bị cáo Lê Văn H2 số tiền 3.000.000 đồng (ba triệu đồng).

Tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước: Số tiền 28.600.000 đồng (hai mươi tám triệu sáu trăm nghìn đồng) (Theo lệnh thanh toán ngày 06/9/2021, số tài khoản 5503203000013 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Bến Cát – tại ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chi nhánh Bến Cát).

5. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

6. Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm./.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết theo quy định./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

181
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 131/2021/HS-ST ngày 24/09/2021 về tội đánh bạc

Số hiệu:131/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Bến Cát - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;