Bản án 128/2021/HNGĐ-ST ngày 21/08/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 128/2021/HNGĐ-ST NGÀY 21/08/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN 

Ngày 21 tháng 8 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 83/2021/TLST-HNGĐ ngày 23 tháng 4 năm 2021 về việc: "Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn". Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 115/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 08 tháng 7 năm 2021; Quyết định hoãn phiên tòa số 98/2021/QĐST-HNGĐ ngày 26 tháng 7 năm 2021, giữa:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Ch, sinh năm 1993. ĐKHKTT: Thôn NC, xã Thg, huyện Bng, tỉnh Hải Dương. Chỗ ở hiện nay: Thôn LT, xã IL, huyện CP, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

- Bị đơn: Anh Cao Văn Ph, sinh năm 1988.

Địa chỉ trước khi xuất cảnh: Thôn NC, xã Thg, huyện Bng, tỉnh Hải Dương.

Hiện đang cư trú tại: Đài Loan.

Vắng mặt và đề nghị xét xử vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Cao Văn Kh, sinh năm 1960. Địa chỉ: Thôn NC, xã Thg, huyện Bng, tỉnh Hải Dương.

Vắng mặt và đề nghị xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và trong quá trình giải quyết vụ án, Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Ch trình bày: Chị và anh Cao Văn Ph được tự do tìm hiểu, tự nguyện đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Thg, huyện Bng, tỉnh Hải Dương ngày 10/01/2011. Vợ chồng chung sống hạnh phúc được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh Ph không chung thủy với chị, chị đã tha thứ nhưng anh không thay đổi mà chơi bời, lô đề, cờ bạc dẫn tới nợ nần và có nhiều người đến đòi nợ, vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi nhau, chị phải đưa các con về nhà đẻ ở. Năm 2016, sau khi về nhà đẻ ở được một thời gian thì gia đình lo cho chị đi xuất khẩu lao động tại Đài Loan. Năm 2018 anh Ph cũng sang Đài Loan làm ăn nhưng mỗi người ở một nơi thỉnh thoảng mới gặp nhau và anh Ph lại có người phụ nữ khác, khi bị phát hiện thì anh chửi bới, đánh đập chị. Từ đó chị và anh Ph không còn quan tâm đến nhau nữa. Năm 2019 chị về nước nhưng về thẳng nhà đẻ ở, anh Ph vẫn ở Đài Loan nhưng đã chuyển chỗ ở mới, vợ chồng không liên lạc với nhau. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Cao Văn Ph.

Về con chung: Vợ chồng có hai con chung là Cao Nguyễn Ngọc H, sinh ngày 23/10/2011 và Cao Nguyễn Thành L, sinh ngày 01/11/2013, hiện các con đang ở với ông bà nội. Lúc đầu chị có quan điểm nhất trí để anh Ph nuôi dưỡng cả hai con và nhất trí giao các con cho ông nội là Cao Văn Kh chăm sóc trong thời gian anh Ph không có mặt tại Việt Nam. Tuy nhiên, đến nay chị đề nghị được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cả hai con chung cho đến khi các con thành niên (đủ 18 tuổi) và chị tự nguyện không yêu cầu anh Ph phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung. Hiện tại chị đang làm nghề bán hàng điện nước, thu nhập khoảng 8.000.000đ/1 tháng, chị có chỗ ở và đảm bảo đủ điều kiện để nuôi dưỡng cả hai con chung.

Về tài sản chung, nợ chung: Vợ chồng không có tài sản chung nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ông Cao Văn Kh (là bố đẻ anh Ph) khai: Ông không biết địa chỉ cụ thể của anh Ph ở nước ngoài nên không cung cấp được cho Tòa án. Anh Ph vẫn thường xuyên liên lạc với gia đình qua điện thoại, ông đồng ý nhận các văn bản tố tụng của Tòa án và có trách nhiệm thông báo cho anh Ph biết. Thông qua gia đình, anh Ph trình bày quan điểm và mong muốn chị Ch suy nghĩ lại, tuy nhiên chị Ch cương quyết xin ly hôn nên anh đồng ý, lúc đầu anh có nguyện vọng được nuôi dưỡng cả hai con chung, tự nguyện không yêu cầu chị Ch phải cấp dưỡng nuôi con và ủy quyền cho ông chăm sóc các con trong thời gian anh không có mặt tại Việt Nam. Tuy nhiên, đến nay anh có quan điểm nhất trí giao cả hai con cho chị Ch trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng và đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt anh. Ông Kh cũng có quan điểm nhất trí để chị Ch nuôi dưỡng cả hai con chung và ông đề nghị được vắng mặt tại phiên tòa.

Tòa án xác minh tại chính quyền địa phương nơi chị Chinh, anh Ph đăng ký kết hôn và sinh sống thể hiện: Quá trình chung sống vợ chồng có nảy sinh mâu thuẫn, nguyên nhân cụ thể địa phương không nắm được. Chị Ch đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở, còn anh Ph vẫn đang lao động tại Đài Loan, vợ chồng mỗi người ở một nơi. Nay chị Ch có đơn xin ly hôn, địa phương đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Con chung của chị Ch và anh Ph là Cao Nguyễn Ngọc H và Cao Nguyễn Thành L đều có nguyện vọng được ở với anh Ph.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương phát biểu quan điểm: Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử và nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 56; 81; 82 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện, xử cho chị Nguyễn Thị Ch được ly hôn anh Cao Văn Ph. Về con chung: Giao cho chị Nguyễn Thị Ch trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung là Cao Nguyễn Ngọc H và Cao Nguyễn Thành L cho đến khi các con thành niên, anh Ph không phải cấp dưỡng tiền nuôi con. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Ch phải chịu 300.000đ án phí sơ thẩm dân sự (ly hôn).

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và xem xét ý kiến của các đương sự, quan điểm đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Ch sinh sống ở Việt Nam, bị đơn anh Cao Văn Ph có nơi cư trú cuối cùng trước khi xuất cảnh ở thôn NC, xã Thg, huyện Bng, tỉnh Hải Dương, hiện anh Ph đang lao động tại Đài Loan. Do vậy, Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền. Trong quá trình giải quyết vụ án, chị Ch không cung cấp được địa chỉ cụ thể của anh Ph ở Đài Loan. Tòa án đã yêu cầu gia đình anh Ph cung cấp địa chỉ nhưng gia đình không cung cấp được. Tòa án đã tống đạt các văn bản tố tụng cho người thân trong gia đình anh Ph và gia đình đã thông báo cho anh Ph biết việc Tòa án đang giải quyết vụ án ly hôn giữa chị Ch và anh Ph. Đồng thời Tòa án tiến hành niêm yết công khai các văn bản tố tụng theo quy định. Tại phiên tòa lần thứ hai chị Ch vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, anh Ph vắng mặt và đề nghị xét xử vắng mặt. Do vậy, căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự theo quy định của pháp luật.

[2]. Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Ch và anh Cao Văn Ph kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Thg, huyện Bng, tỉnh Hải Dương ngày 10/01/2011 là hôn nhân hợp pháp. Vợ chồng chung sống hạnh phúc được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do anh Ph không chung thủy với chị, chơi bời, lô đề, cờ bạc nợ nần từ đó vợ chồng thường xuyên xảy ra xô xát, cãi nhau, chị Ch nhiều lần tha thứ nhưng anh Ph không thay đổi. Thời gian vợ chồng ở Đài Loan anh Ph tiếp tục có người phụ nữ khác và chửi bới, đánh đập chị. Từ đó vợ chồng sống ly thân, không ai quan tâm đến ai. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, đề nghị Tòa án giải quyết cho chị ly hôn anh Cao Văn Ph. Thông qua gia đình, anh Ph thông tin và xác định không thể líu kéo được tình cảm vợ chồng, chị Ch cương quyết xin ly hôn nên anh cũng nhất trí. Hội đồng xét xử xét thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa chị Ch và anh Ph đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy, cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện, xử cho chị Ch ly hôn anh Ph là phù hợp với quy định tại Điều 51 và 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

[2.2] Về quan hệ nuôi con: Chị Nguyễn Thị Ch và anh Cao Văn Ph có hai con chung là Cao Nguyễn Ngọc H, sinh ngày 23/10/2011 và Cao Nguyễn Thành L, sinh ngày 01/11/2013, hiện các con đang ở với ông bà nội. Mặc dù các con cùng có nguyện vọng được ở với anh Ph, tuy nhiên anh Ph đang lao động ở nước ngoài, không có mặt tại Việt Nam nên không đủ điều kiện để trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung. Chị Ch có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung cho đến khi các con thành niên (tròn 18 tuổi), anh Ph nhất trí để chị Ch nuôi dưỡng các con. Do vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận giao cho chị Ch trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cả hại con chung Cao Nguyễn Ngọc H và Cao Nguyễn Thành L là phù hợp với quy định tại các Điều 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình. Chấp nhận sự tự nguyện của chị Ch tạm thời không yêu cầu anh Ph phải cấp dưỡng tiền nuôi con. Nếu có căn cứ cho rằng chị Ch không đủ điều kiện trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung thì anh Ph có quyền làm đơn khởi kiện tại Tòa án có thẩm quyền giải quyết yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con theo quy định của pháp luật.

[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Chị Ch và anh Ph cùng xác định vợ chồng không có tài sản chung nên không yêu cầu Hội đồng xét xử xem xét, giải quyết.

[3]. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Ch phải chịu án phí dân sự sơ thẩm (về Hôn nhân gia đình) theo quy định tại Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì những lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điều 51; 56; 81; 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Ch.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị Ch ly hôn anh Cao Văn Ph.

2. Về quan hệ nuôi con: Xử giao cho chị Nguyễn Thị Ch trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cả hai con chung là Cao Nguyễn Ngọc H, sinh ngày 23/10/2011 và Cao Nguyễn Thành L, sinh ngày 01/11/2013 cho đến khi các con thành niên (đủ 18 tuổi). Chấp nhận sự tự nguyện của chị Nguyễn Thị Ch tạm thời không yêu cầu anh Cao Văn Ph phải cấp dưỡng tiền nuôi con.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung: Không có.

4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Ch phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm (về Hôn nhân gia đình) và được đối trừ số tiền tạm ứng án phí 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) đã nộp, theo biên lai thu số AA/2018/0005958 ngày 22 tháng 4 năm 2021 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Hải Dương.

5. Về quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị Ch và ông Cao Văn Kh được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Anh Cao Văn Ph được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu yêu cầu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

178
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 128/2021/HNGĐ-ST ngày 21/08/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:128/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;