Bản án 128/2021/HNGĐ-ST ngày 20/04/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 128/2021/HNGĐ-ST NGÀY 20/04/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 19 tháng 4 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Ch M xét xử công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 75/2021/TLST-HNGĐ ngày 27 tháng 01 năm 2021 về việc tranh chấp “Ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 133/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 12 tháng 3 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 161/2021/QĐST-HNGĐ ngày 01 tháng 4 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị X T, sinh năm 1992; địa chỉ: số nhà 89, tổ 3, ấp A M, xã H A, huyện Ch M, tỉnh A G (có mặt).

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn chị Nguyễn Thị X T là luật sư Trần N P - Thuộc đoàn luật sư tỉnh A G (có văn bản xin vắng mặt).

2. Bị đơn: Anh Trần Minh P, sinh năm 1986; địa chỉ: số nhà 89, tổ 3, ấp A M, xã H A, huyện Ch M, tỉnh A G (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện, tờ tự khai, biên bản không hòa giải được và tại phiên tòa, nguyên đơn chị Nguyễn Thị X T trình bày: Chị và anh P do quen biết và được cha mẹ hai bên tổ chức lễ cưới vào năm 2012, anh chị có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật tại Ủy ban nhân dân xã H A, huyện Ch M, tỉnh A G. Anh chị sống chung hạnh phúc đến cuối năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do bất đồng quan điểm, trong cuộc sống thường xuyên cự cãi, tính tình không phù hợp nhau. Anh chị không còn sống chung từ đó đến nay. Nay nhận thấy tình cảm không còn chị yêu cầu ly hôn với anh P

- Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên Trần Thị N H, sinh ngày 11/7/2010 hiện nay đang sống chung với chị X T, khi ly hôn chị X T yêu cầu được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung, không yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị X T xác định không có.

- Về nợ chung: Chị Nguyễn Thị X T xác định không có.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn có văn bản trình bày ý kiến:

- Về hôn nhân: Giữa chị T và P do quen biết và được cha mẹ hai bên tổ chức lễ cưới vào năm 2012, vợ chồng có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật tại Ủy ban nhân dân xã H A, huyện Ch M, tỉnh A G, vợ chồng sống thời gian đầu của hạnh phúc, thời gian sau thì xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân xảy ra mâu thuẫn, vợ chồng thường xảy ra cự cãi, bất đồng quan điểm trong cuộc sống, chị T, anh P không còn chung sống từ cuối năm 2018 cho đến nay. Gia đình hai bên dàn xếp nhung không thành. Nay nhận thấy tình cảm không còn, chị yêu cầu ly hôn với anh P

Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị T được ly hôn với anh P .

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên Trần Thị N H, sinh ngày 11/7/2010. Hiện cháu Hân đang sống chung với chị T, khi ly hôn, chị T yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung, không yêu cầu anh p cấp dưỡng nuôi con.

Đề nghị Hội đồng xét xử giao cháu Trần Thị N H, sinh ngày 11/7/2010 cho chị T được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung, anh P không phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Chị T xác định không có.

- Về nợ chung: Chị T xác định không có.

Anh Trần Minh P đã được tống đạt Thông báo thụ lý vụ án và tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhung anh P vắng mặt, cũng như không tham gia các phiên hòa giải.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về t tụng: Chị T khởi kiện anh P cư trú ấp A M, xã H A, huyện Ch M, tỉnh A G, Tòa án nhân dân huyện Ch M thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền, phù hợp theo quy định tại Điều 28, Điều 35, Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

Anh P đã được tống đạt hợp lệ quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt. Căn cứ vào Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với anh P

[2]. Về hôn nhân: Chị T và anh P do quen biết và được cha mẹ hai bên tổ chức lễ cưới vào năm 2012, anh chị có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật tại Ủy ban nhân dân xã H A, huyện Ch M, tỉnh A G. Anh chị sống chung hạnh phúc đến cuối năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm, trong cuộc sống thường xuyên cự cãi, tính tình không phù hợp nhau. Chị và anh P không còn sống chung từ cuối năm 2018 cho đến nay, như vậy mâu thuẫn đã trầm trọng, đời sống chung giữa chị T, anh P không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, chị T yêu cầu ly hôn với anh P, căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân gia đình “ Khi vợ hoặc chồng xin ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn....” Tại phiên tòa, chị T xác định tình cảm không còn. Do đó, yêu cầu ly hôn của chị T là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị T.

[3]. Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên Trần Thị N H, sinh ngày 11/7/2010, hiện cháu Hân đang sống chung với chị T. Khi ly hôn chị T yêu cầu được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung. Tuy nhiên, việc giao con cho ai nuôi cần phải xem xét mọi mặt về quyền lợi của con chưa thành niên, hiện nay cháu Hân sống ổn định với chị T vẫn phát triển tốt về thể chất và tinh thần. Trong quá trình làm việc Tòa án tiến hành ghi nhận ý kiến của cháu Hân thì cháu có nguyện vọng muốn được sống chung với chị T, anh P cũng không có ý kiến phản đối. Do đó, Hội đồng xét xử giao cháu Hân cho chị T tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình “ Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con ; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con”.

[4]. Về cp dưỡng nuôi con: Tại phiên tòa, chị T không yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con, anh P không có ý kiến phản đối do đó Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5]. Về tài sản chung: Chị T xác định không có nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[6]. Về nợ chung: Chị T xác định không có nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Ghi nhận chị T xác định không có nợ chung, nhưng sau khi bản án ly hôn có hiệu lực pháp luật nếu có nguyên đơn xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của anh, chị trong thời kỳ hôn nhân thì anh chị phải liên đới chịu trách nhiệm với tư cách đồng bị đơn trong vụ án dân sự khác.

[7]. Về án phí: Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, chị Nguyễn Thị X T phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ:

Các Điều 28, 35, 39, 144, 147, 227, 235, 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

Khoản 1 Điều 53, 56, 57, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị X T.

- Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị X T được ly hôn với anh Trần Minh P

Giấy chứng nhận kết hôn số 89/2012 ngày 16/5/2012 của Ủy ban nhân xã H A, huyện Ch M, tỉnh A G không còn giá trị pháp Lý.

- Về con chung: Chị Nguyễn Thị X T được tiếp tục chăm sóc và nuôi dưỡng con chung tên Trần Thị N H, sinh ngày 11/7/2010. Anh Trần Minh P không phải cấp dưỡng nuôi con.

Chị Nguyễn Thị X T cùng các thành viên gia đình (nếu có) không được cản trở anh Trần Minh P trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.

- Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị X T Thi xác định không có nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

- Về nợ chung: Chị Nguyễn Thị X T xác định không có nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Ghi nhận chị Nguyễn Thị X T xác định không có nợ chung, nhưng sau khi bản án ly hôn có hiệu lực pháp luật nếu có nguyên đơn xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của anh P, chị T thì anh, chị phải liên đới chịu trách nhiệm với tư cách đồng bị đơn trong vụ án dân sự khác.

- Về án phí: Chị Nguyễn Thị X T phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) theo biên lai thu tiền số 0006010 ngày 27.01.2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Ch M, tỉnh A G. Chị Nguyễn Thị X T không phải nộp thêm.

Đương sự có mặt tham gia phiên tòa có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

175
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 128/2021/HNGĐ-ST ngày 20/04/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:128/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;