Bản án 116/2020/HSST ngày 28/12/2020 về tội đánh bạc

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LG, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 116/2020/HSST NGÀY 28/12/2020 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 28/12/2020, Toà án nhân dân huyện LG xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 116/2020/HSST ngày 03/12/2020 đối với các bị cáo:

1. Vũ Khắc Q, sinh năm 1967; tên gọi khác: Không có. Giới tính: Nam; Nơi cư trú: Tổ dân phố TM, thị trấn V, huyện LG, tỉnh Bắc Giang; Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Tự do; trình độ học vấn: 07/12; Con ông Vũ Khắc H và bà Nguyễn Thị Th; Có vợ là Nguyễn Thị Nh (đã ly hôn) và có 03 con.

- Tiền án, tiền sự: Không.

- Bị cáo bị bắt quả tang, tạm giữ từ 29/10/2020 đến 03/11/2020, hiện áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú.(có mặt tại phiên tòa)

2. Dương Thị H, sinh năm 1975; tên gọi khác: Không có. Giới tính: Nữ;

Nơi cư trú: Thôn AL, xã YM, huyện LG, tỉnh Bắc Giang; Quốc tịch: Việt Nam;

dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Tự do; trình độ học vấn: 12/12; Con ông Dương Việt H và bà Nguyễn Thị Th; Có chồng là Đỗ Văn N (đã chết) và có 02 con.

- Tiền án, tiền sự: Không.

- Bị cáo bị bắt quả tang, tạm giữ từ 29/10/2020 đến 03/11/2020, hiện áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. (có mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Các bị cáo Vũ Khắc Q và Dương Thị H bị Viện kiểm sát nhân dân huyện LG truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Hồi 17 giờ 50 phút ngày 29/10/2020, Công an huyện LG bắt quả tang Dương Thị H bán số lô, đề cho 02 đối tượng tự khai là Phạm Ngọc H, sinh năm 1987 và Nguyễn Văn T, sinh năm 1985 có cùng địa chỉ thôn Thanh Lương, xã Quang Thịnh, huyện LG.

Quá trình bắt quả tang đã thu giữ: 01 tờ giấy nhớ màu vàng có ghi chữ và số tại túi quần phía trước bên trái của T; 01 tờ giấy nhớ màu vàng có ghi chữ và số tại túi quần phía trước bên phải của H; 01 bàn nhựa và 02 ghế nhựa.

Thu trên mặt bàn nhựa nơi H ngồi: 01 tờ giấy nhớ màu vàng ghi chữ và số; 09 tờ giấy A4 có ghi chữ và số; 02 chiếc bút bi nhãn hiệu MATIX5 và FO- 03/VN; 01 điện thoại SamSung có số IMEI 354802093524875/01; 01 điện thoại SamSung có số IMEI 356646102922507/01; 01 ví màu đen bên trong có 13.800.000 đồng;

Hồi 18 giờ ngày 29/10/2020, Vũ Khắc Q, sinh năm 1967 trú tại tổ dân phố TM, thị trấn V, huyện LG đến Công an huyện LG đầu thú về hành vi nhận ghi số lô, đề của H chuyển đến.

Hồi 18 giờ 30 phút cùng ngày, Cơ quan điều tra khám xét khẩn cấp nơi ở của Q, thu giữ:

- Tại nền nhà phòng ngủ tầng 2, cạnh giường: 02 tờ giấy A4 ghi chữ và số, 01 quyển sổ bìa màu vàng có chữ “Giáo án”, bên trong có chữ và số; 02 tập giấy nhớ màu vàng không ghi gì; 01 bút bi nến màu hồng; 01 điện thoại Nokia màu đen có số Seri 357693105354527; 01 điện thoại Nokia màu xanh có số Seri 352877109433776; 01 máy tính bảng Huawei màu trắng có số IMEI 864505029688606; 01 máy tính bảng SamSung màu đen có số IMEI 355405092928821/01; 01 máy tính Deli; 01 quyển sổ bìa màu vàng có chữ “Sổ kế toán”, bên trong có chữ và số; 01 tập giấy A4 gồm 30 tờ không ghi gì.

- Tại két sắt cạnh giường phòng ngủ tầng 2: Số tiền 12.000.000 đồng.

Ngày 30/10/2020, Cơ quan điều tra đã trưng cầu giám định chữ số, chữ viết trên các tờ giấy thu giữ gồm: 03 tờ giấy nhớ màu vàng và 09 tờ giấy A4 thu giữ khi bắt quả tang H; 02 tờ giấy A4 thu giữ khi khám xét nơi ở của Q.

Tại Kết luận giám định số 1586 ngày 02/11/2020, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang, kết luận với nội dung: Các chữ số, chữ viết trên 03 tờ giấy nhớ màu vàng, 09 tờ giấy A4 là do H viết; các chữ số, chữ viết trên 02 tờ giấy A4 là do Q viết.

Quá trình điều tra xác định: Q và H có mối quan hệ bạn bè, Q đặt vấn đề cho H làm thư ký ghi số lô, đề cho mình và được H đồng ý, ngoài ra Q còn trực tiếp bán lô, đề cho khách. Theo Q khai, số lô, đề ghi được và nhận của H, Q sẽ chuyển cho đối tượng Nguyễn Thị Nh, sinh năm 1979 ở thôn Mải Hạ, xã Tân Thanh, huyện LG. Khi trực tiếp bán cho khách H bán số lô với giá 23.000 đồng/01 điểm lô, chuyển cho Q 21.800 đồng/01 điểm để hưởng lợi 1.200 đồng/01 điểm; các dạng số đề Hà sẽ được hưởng 28% trên tổng số tiền ghi được. Nếu khách trúng H sẽ lấy tiền từ Q để trả thưởng, nếu khách thua H sẽ giữ phần lợi nhuận của mình còn lại chuyển cho Q. Đối với Q nhận cáp lô, đề từ H và trực tiếp ghi cho khách, sau đó Q sẽ lọc ra vài số để giữ lại tự chơi với khách, số còn lại theo Q khai sẽ chuyển cho Nh, việc Q chuyển và hưởng lợi tương tự như H chuyển cho Q.

Hình thức đánh bạc như sau: Các bị cáo lợi dụng việc Nhà nước quay thưởng Xổ số kiến thiết miền Bắc trong ngày để tính thắng thua, việc so thưởng số lô, đề sẽ căn cứ vào hai số hoặc ba số cuối của giải xổ số. Đối với dạng đánh lô, khách đánh hai số từ 00 đến 99 và được so với tất cả các giải, 01 điểm lô ghi với giá 23.000 đồng, nếu trúng sẽ được 80.000 đồng, trúng bao nhiêu số sẽ được nhân gấp từng đó (ví dụ nếu khách ghi lô mà so giải trúng 02 lần sẽ được tính gấp đôi là 160.000 đồng/ 01 điểm trúng). Đối với đánh đề được ghi gồm các dạng: Đặc biệt, nhất to, ba càng, đề hai cửa và ba càng hai cửa. Với đề đặc biệt và nhất to, người chơi sẽ đánh hai số từ 00 đến 99, so với 02 số cuối của giải đặc biệt hoặc giải nhất xổ số tuỳ theo khách chọn, nếu trúng khách sẽ được trả thưởng gấp 70 lần số tiền đánh; với đề ba càng người chơi sẽ đánh 03 số cuối của giải đặc biệt hoặc nhất tuỳ theo khách chọn, nếu trúng sẽ được gấp 400 lần số tiền đánh; với đề hai cửa người chơi sẽ được so 02 số cuối của cả giải đặc biệt và giải nhất; với ba càng hai cửa người chơi sẽ được so 03 số cuối của cả giải đặc biệt và giải nhất, với dạng đề hai cửa số tiền đánh người chơi sẽ phải bỏ ra gấp đôi để được so cả giải đặc biệt và giải nhất.

Trong ngày 29/10/2020 xác định hành vi đánh bạc của các bị cáo cụ thể như sau:

* Trong ngày 29/10/2020 Dương Thị H đã bán số lô, đề và đã chuyển cho Q qua 03 tin nhắn bằng phần mềm Zalo, gồm:

+ Thứ nhất số tiền là 19.300.000 đồng.

+ Thứ hai số tiền là 8.740.000 đồng.

+ Thứ ba số tiền là 8.194.000 đồng.

Ngoài ra, H còn bán số lô, đề nhưng chưa chuyển cho Q là 5.830.000 đồng.

Tổng số tiền H đánh bạc ngày 29/10/2020 là 42.064.000 đồng, trong đó đã chuyển cho Q 03 cáp lô, đề với số tiền 36.234.000 đồng.

* Đối với Vũ Khắc Q:

Q nhận 03 cáp lô, đề của H chuyển đến với số tiền đánh bạc là 36.234.000 đồng, ngoài ra Q còn ghi cho khách không quen biết 20.000 đồng tiền đề. Như vậy, tổng số tiền Q đánh bạc là 36.254.000 đồng.

Các bị cáo ghi số lô, đề bị Cơ quan Công an phát hiện bắt giữ khi chưa mở thưởng.

Tại bản cáo trạng số 111/KSĐT ngày 30/11/2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện LG đã truy tố các bị cáo Vũ Khắc Q, Dương Thị H về tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự.

Sau phần xét hỏi, tại phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện LG đã luận tội các bị cáo, phân tích tính chất, vai trò và mức độ hành vi phạm tội của từng bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo Vũ Khắc Q, Dương Thị H phạm tội “Đánh bạc”.

Đề nghị HĐXX áp dụng khoản 1, 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 65 BLHS đối với cả 2 bị cáo:

- Xử phạt Vũ Khắc Q từ 24 tháng đến 30 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 48 tháng đến 60 tháng kể từ ngày tuyên án.

- Xử phạt Dương Thị H từ 18 đến 24 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 36 tháng đến 48 tháng kể từ ngày tuyên án.

Phạt bổ sung bằng tiền mỗi bị cáo từ 10 triệu đến 15 triệu đồng sung ngân sách Nhà nước Ngoài ra đại diện VKS còn đề nghị giao bị cáo cho UBND xã giám sát trong thời gian thử thách, xử lý vật chứng, án phí và tuyên quyền kháng cáo đối với các bị cáo.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra lại phiên toà.

Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên và của các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về hành vi, quyết định của Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện LG, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện LG, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, tình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2]. Về tội danh và khung hình phạt:

Quá trình điều tra và tại phiên tòa chứng minh được bị cáo Vũ Khắc Q chủ động đặt vấn đề với Dương Thị H ghi số lô, đề sau đó chuyển cho mình. Ngày 29/10/2020, H có hành vi đánh bạc với khách đi đường bằng hình thức ghi số lô, số đề sau đó chuyển cáp cho Q với tổng số tiền là 36.254.000đồng;

Bị cáo Dương Thị H có hành vi đánh bạc bằng hình thức ghi số lô, số đề với khách đi đường được 42.064.000 đồng.

Tại phiên toà hôm nay, các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như bản cáo trạng đã truy tố.

Lời khai của các bị cáo tại phiên toà phù hợp với biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang, phù hợp lời khai của các bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với kết luận giám định, cũng như vật chứng đã thu giữ được, phù hợp với thời gian, địa điểm xảy ra tội phạm.

Tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự quy định:

“1. Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 5.000.000 đồng, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.” Như vậy hành vi của các bị cáo Vũ Khắc Q, Dương Thị H đã phạm tội “Đánh bạc” theo quỵ định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự và bản cáo trạng mà Viện kiểm sát đã truy tố các bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi của các bị cáo đã xâm phạm đến lĩnh vực trật tự công cộng, gây mất an ninh trật tự trong xã hội. Do vậy cần có hình phạt phạt tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo để giáo dục riêng và phòng ngừa tội phạm.

Về tính chất của vụ án thì thấy: Đây là vụ án đồng phạm nhưng chỉ là đồng phạm giản đơn, do vậy cần áp dụng Điều 17, Điều 58 BLHS đối với các bị cáo.

[3]. Xét về vị trí, vai trò của từng bị cáo trong vụ án, thì thấy:

Bị cáo Vũ Khắc Q là người chủ động đặt vấn đề với bị cáo H làm thư ký, chuyển tiền đánh bạc ghi được cho mình. Do vậy bị cáo Q có vai trò thứ nhất, bị cáo H có vai trò thứ 2 trong vụ án.

[4].Xét về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng TNHS:

- Về tình tiết giảm nhẹ TNHS:

Các bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo khai báo thành khẩn, tỏ ra ăn năn hối cải nên các bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ TNHS quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 BLHS.

Bị cáo Dương Thị H có bố là Dương Việt H được nhà nước tặng nhiều huân, huy chương; Bị cáo Vũ Khắc Q sau khi hành vi phạm tội bị phát hiện đã ra đầu thú nên các bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS.

Từ những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như đã nêu ở trên, HĐXX xét thấy:

Các bị cáo có nhân thân tốt, có nơi cư trú ổn định và có nhiều tình tiết giảm nhẹ TNHS, có khả năng tự cải tạo nên HĐXX cho hưởng án treo, cải tạo tại địa phương cũng đủ giáo dục bị cáo trở thành công chấp hành pháp luật.

Đây là vụ án có tính chất, động cơ vụ lợi nên ngoài hình phạt chính cần áp dụng khoản 3 Điều 321 BLHS phạt bổ sung mỗi bị cáo một khoản tiền sung Ngân sách Nhà nước.

Bị cáo Vũ Khắc Q khai chuyển cáp đề cho chị Nguyễn Thị Nh ở thôn Mải Hạ, xã Tân Thanh, huyện LG. Tuy nhiên quá trình điều tra đã cho đối chất giữa Q với Nh nhưng chị Nh không thừa nhận. Ngoài lời khai của Q không còn chứng cứ nào khác để chứng minh hành vi đánh bạc của Nh nên Cơ quan điều tra không có căn cứ xử lý Nh, HĐXX thấy là pù hợp pháp luật.

Đối với Nguyễn Văn T và Phạm Ngọc H là người đánh bạc, quá trình lấy lời khai lợi dụng sơ hở H và T đã bỏ trốn. Cơ quan điều tra đã xác minh tại địa chỉ mà H, T khai nhưng không có ai có tên, tuổi và địa chỉ như các đối tượng đã khai nên không có căn cứ xử lý.

[5].Về vật chứng và trách nhiệm dân sự:

[5.1]. Số tiền 42.064.000 đồng bị cáo H ghi số lô, đề có được là tiền dùng vào việc phạm tội nên tịch thu sung Ngân sách nhà nước. Số tiền này bị cáo mới chuyển cáp đề cho Vũ Khắc Q chứ chưa chuyển tiền, do đó bị cáo phải nộp lại toàn bộ số tiền này để sung Ngân sách nhà nước.

- Số tiền 25.800.000đ đựng trong 2 phong bì giấy dán kín niêm phong, mặt trước hai phong bì có chữ “Tiền vụ Dương Thị H” và đóng dấu của Cơ quan CSĐT Công an huyện LG trong đó có 13.800.000đ thu giữ của bị khi bị bắt quả tang là tiền đánh bạc nên tịch thu sung Ngân sách nhà nước.

Vì vậy, bị cáo H còn phải nộp lại số tiền 28.264.000đ để sung Ngân sách nhà nước.

- Số tiền 12.000.000đ còn lại đựng trong 2 phong bì bên ngoài có chữ “Tiền vụ Dương Thị H” và đóng dấu của Cơ quan CSĐT Công an huyện LG là tiền thu giữ khi khám xét nhà bị cáo Q, không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

[5.2]. Số tiền bị cáo Q tự ghi cho khách là 20.000đ là tiền dùng đánh bạc nên buộc bị cáo phải nộp sung Ngân sách nhà nước.

[5.3]. 01 điện thoại di động Samsung imei là 356646102922507/01 là phương tiện bị cáo H dùng gửi cáp lô, đề cho bị cáo Q nên tịch thu sung Ngân sách nhà nước.

[5.4]. 01 máy tính bảng Samsung màu đen imei là 355405092928821/01;

01 máy tính có chữ Deli là phương tiện bị cáo Q dùng vào việc phạm tội nên tịch thu sung Ngân sách nhà nước.

[5.5]. 01 điện thoại di động Samsung, bị vỡ màn hình phía trước có số imei là 354802093524875/01; 01 ví da màu đen, mặt trước cửa khoá có chữ “GUCCI” thu giữ của bị cáo H, không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

[5.6]. 02 chiếc bút bi nhãn hiệu MATIX5 và FO-03/VN; 02 tập giấy nhớ màu vàng không viết gì; 01 bút bi nến màu hồng; 01 quyển sổ bìa màu vàng có chữ “Giáo án”, bên trong có chữ và số; 01 quyển sổ bìa màu vàng có chữ “Sổ kế toán”, bên trong có chữ và số; 01 tập giấy A4 gồm 30 tờ không ghi gì; 01 bàn nhựa mà đỏ và 02 ghế nhựa thu giữ của các bị cáo, là vật chứng dùng vào việc phạm tội, không có giá trị hoặc giá trị không lớn nên tịch thu tiêu hủy.

[5.7]. 01 điện thoại Nokia màu đen có số Seri 357693105354527; 01 điện thoại Nokia màu xanh có số Seri 352877109433776; 01 máy tính bảng Huawei màu trắng có số IMEI 864505029688606 thu giữ của bị cáo Q, không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

[6]. Về án phí và quyền kháng cáo: Các bị cáo phải chịu án phí và được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

[1].Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Vũ Khắc Q, Dương Thị H phạm tội “Đánh bạc”.

[2].Về điều luật áp dụng và hình phạt:

[2.1].Áp dụng khoản 1, 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 65 Bộ luật hình sự.

Xử phạt Vũ Khắc Q 02 năm tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 48 tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Phạt bổ sung bằng tiền 15.000.000đ sung vào Ngân sách nhà nước.

Giao bị cáo Vũ Khắc Q cho UBND thị trấn V, huyện LG, tỉnh Bắc Giang giám sát giáo dục trong thời gian thử thách.

[2.2].Áp dụng khoản 1, 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 65 Bộ luật hình sự.

Xử phạt Dương Thị H 18 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 36 tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Phạt bổ sung bằng tiền 15.000.000đ sung vào Ngân sách nhà nước.

Giao bị cáo Dương Thị H cho UBND xã YM, huyện LG, tỉnh Bắc Giang giám sát giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong trường hợp bị cáo Vũ Khắc Q, Dương Thị H thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu các bị cáo Vũ Khắc Q, Dương Thị H cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc các bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã tuyên.

[3]. Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

[3.1].Vật chứng là tiền và trách nhiệm dân sự:

- Tịch thu sung quỹ nhà nước số tiền 13.800.000đ trong tổng số tiền 25.800.000đ đựng trong 2 phong bì giấy dán kín niêm phong, mặt trước hai phong bì có chữ có chữ “Tiền vụ Dương Thị H” và đóng dấu của Cơ quan CSĐT Công an huyện LG.

- Buộc bị cáo Dương Thị H phải nộp lại số tiền 28.264.000đ để sung Ngân sách nhà nước.

- Hoàn trả cho Vũ Khắc Q 12.000.000đ đựng trong 2 phong bì giấy dán kín niêm phong, mặt trước hai phong bì có chữ “Tiền vụ Dương Thị H” và đóng dấu của Cơ quan CSĐT Công an huyện LG nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

- Buộc bị cáo Vũ Khắc Q phải nộp lại số tiền 20.000đ để sung Ngân sách nhà nước.

[3.2].Các vật chứng khác:

- Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động Samsung imei là 356646102922507/01 của bị cáo Dương Thị H.

- Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước 01 máy tính bảng Samsung màu đen imei là 355405092928821/01; 01 máy tính có chữ Deli của Vũ Khắc Q.

- Trả cho Dương Thị H 01 điện thoại di động Samsung, bị vỡ màn hình phía trước có số imei là 354802093524875/01; 01 ví da màu đen, mặt trước cửa khoá có chữ “GUCCI” nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

- Trả cho Vũ Khắc Q 01 điện thoại Nokia màu đen có số Seri 357693105354527; 01 điện thoại Nokia màu xanh có số Seri 352877109433776;

01 máy tính bảng Huawei màu trắng có số IMEI 864505029688606 nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

- Tịch thu tiêu hủy 02 chiếc bút bi nhãn hiệu MATIX5 và FO-03/VN; 02 tập giấy nhớ màu vàng không viết gì; 01 bút bi nến màu hồng; 01 quyển sổ bìa màu vàng có chữ “Giáo án”, bên trong có chữ và số; 01 quyển sổ bìa màu vàng có chữ “Sổ kế toán”, bên trong có chữ và số; 01 tập giấy A4 gồm 30 tờ không ghi gì; 01 bàn nhựa mà đỏ và 02 ghế nhựa.

[4].Về án phí: Áp dụng Điều 99 BLTTHS; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Toà án.

Các bị cáo Vũ Khắc Q, Dương Thị H mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy dịnh tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

[5] Về quyền kháng cáo: Áp dụng điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự Báo cho các bị cáo có mặt biết được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Án xử công khai sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

536
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 116/2020/HSST ngày 28/12/2020 về tội đánh bạc

Số hiệu:116/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lạng Giang - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;