Bản án 112/2019/HS-ST ngày 29/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TÂN UYÊN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 112/2019/HS-ST NGÀY 29/08/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 112/2019/TLST-HS ngày 29 tháng 7 năm 2019; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 110/2019/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 8 năm 2019, đối với các bị cáo:

1. Trương Văn Ch, sinh năm 1993, tại Quảng Trị; nơi thường trú: Khóm D T, thị trấn B, huyện H, tỉnh Quảng Trị; nghề nghiệp: Bảo vệ; trình độ văn hóa: Lớp 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; con ông Trương Văn D và bà Trần Thị H; chưa có vợ con; tiền án: Không; tiền sự: Không. Bị tạm giữ từ ngày 14-02-2019 sau đó chuyển sang tạm giam cho đến nay; có mặt.

2. Nguyễn Trọng Nh, sinh năm 1991, tại Vĩnh Long; nơi thường trú: Ấp H, xã Th, huyện Ô, tỉnh Vĩnh Long; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: Lớp 3/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Văn T và bà Lê Thị M (chết); vợ tên Tô Thị Hồng L, có 01 con sinh năm 2014; tiền án: Không; tiền sự: Không. Bị tạm giữ từ ngày 14-02-2019 sau đó chuyển sang tạm giam cho đến nay; có mặt.

3. Nguyễn Thành T (tên gọi khác: Bala), sinh năm 1993, tại Bình Dương; nơi thường trú: Khu phố D, phường P, thị xã TU, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: Lớp 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Thành T (đã chết) và bà Ngô Thị L; chưa có vợ con; tiền án: Không; tiền sự: Không.

Nh thân: Ngày 17-01-2012, bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước khởi tố về tội cố ý gây thương tích theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 104 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009. Ngày 09-7-2012 được Viện kiểm sát nhân dân huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước đình chỉ vụ án do bị hại rút đơn yêu cầu khởi tố.

Bị tạm giữ từ ngày 14-02-2019 sau đó chuyển sang tạm giam cho đến nay; có mặt.

Người làm chứng:

- Ông Nguyễn Văn Ngh; vắng mặt.

- Ông Phạm Ngọc T; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Trọng Nh, Trương Văn Ch và Nguyễn Thành T có mối quan hệ bạn bè với nhau. Nh, Ch và T đều là đối tượng nghiện ma túy, loại ma túy Nh, Ch và T sử dụng là ma túy đá (Methamphetamine).

Khoảng 20 giờ 30 phút, ngày 13 tháng 02 năm 2019, Ch sử dụng điện thoại có số 0994.509.629 gọi vào số điện thoại 0961.640.014 của Nh rủ Nh góp tiền mua ma túy đá để sử dụng chung nhưng không nói rõ là mua với số tiền bao nhiêu, Nh đồng ý, Ch kêu Nh mua ma túy và đem đến Công ty PMA thuộc khu phố B, phường K, thị xã U, tỉnh Bình Dương, nơi Ch đang làm bảo vệ để sử dụng. Sau khi thỏa thuận với Ch xong, Nh sử dụng điện thoại có số 0961.640.014 gọi vào số điện thoại 0937.946.164 của T để nhờ T mua giùm Nh 500.000 đồng ma túy đá và sẽ trả tiền lại sau, nghe vậy T đồng ý. Sau đó, T sử dụng điện thoại có số 0937.946.164 gọi điện vào số 0934.313.937 gặp Xíu (không rõ nhân thân, lai lịch) hỏi mua thiếu 500.000 đồng ma túy đá, Xíu nghe máy và đồng ý bán ma túy cho T, Xíu kêu T đến khu vực cầu Thạnh Hội thuộc phường P, thị xã U, tỉnh Bình Dương để nhận ma túy, T đồng ý. Sau khi thỏa thuận với Xíu xong, T điều khiển xe Wave (không biển số) chạy đến khu vực cầu Thạnh Hội đứng chờ khoảng 10 phút thì có 01 thanh niên (không rõ nhân thân) đi xe Dream (không rõ biển số) chạy đến, T dẫn người này cùng đến phòng trọ của Nh tại khu phố C thuộc phường P, thị xã U, tỉnh Bình Dương. Khi đến trước phòng trọ của Nh thì người này lấy 01 gói thuốc lá nhãn hiệu JET màu trắng bên trong có 01 bịch ma túy đá bỏ vào mặt đồng hồ xe của T (do mặt đồng hồ xe mô tô bị bể) rồi bỏ đi. Lúc này, T kêu Nh đi ra ngoài gặp T để nhận ma túy, khi Nh đi ra thì T giao ma túy cho Nh. Lúc này, Nh nói với T cho Nh mượn xe Wave của T để đi đưa ma túy đến gặp Ch, T đồng ý và giao xe Wave (không biển số) cho Nh. Nh điều khiển xe mang theo ma túy và dụng cụ sử dụng ma túy đến gặp Ch, khi Nh điều khiển xe đi đến đoạn đường Khánh Bình 26 khu phố B, phường K, thị xã U, tỉnh Bình Dương thì bị lực lượng tuần tra Công an phường Khánh Bình yêu cầu dừng xe để kiểm tra, lực lượng tuần tra yêu cầu Nh lấy đồ vật có trong gói thuốc ra kiểm tra thì phát hiện bên trong gói thuốc có chứa 01 đoạn ống hút bằng thủy tinh và 01 bịch nylon có chứa chất tinh thể màu trắng. Nh khai nhận đây là ma túy mà Nh nhờ T mua để về sử dụng với Ch. Lực lượng tuần tra tiến hành niêm phong bịch nylon có chứa chất tinh thể màu trắng thu giữ của Nh, đồng thời đưa Nh về trụ sở Công an phường Khánh Bình lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ vật chứng gồm:

- 01 bịch nylon hàn kín miệng bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng (đã được niêm phong); 01 vỏ bao thuốc lá hiệu JET; 01 xe mô tô hiệu Wave (không biển số); 01 đoạn ống hút bằng thủy tinh.

- 01 điện thoại di động màu trắng hiệu Asus, số sim 0964.719.361; 01 điện thoại di động màu đen hiệu Nokia, số sim 0994.509.629 của Trương Văn Ch.

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu đỏ, số điện thoại 0961.640.014 của Nguyễn Trọng Nh.

Trên lời khai của Nh, Công an phường Khánh Bình tiến hành mời Ch và T về làm việc, T và Ch khai nhận toàn bộ hành vi của mình. Công an phường Khánh Bình tiến hành lập hồ sơ vụ việc và bàn giao hồ sơ và vật chứng cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên thụ lý theo thẩm quyền.

Quá trình điều tra Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên tiến hành tạm giữ tài liệu, đồ vật có liên quan gồm: 01 điện thoại di động hiệu OPPO, màu bạc, số sim 0937.946.164 của Nguyễn Thành T.

Tại Bản kết luận giám định số 168/MT-PC09 ngày 15-02-2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận: Mẫu tinh thể gửi giám định là ma túy, có trọng lượng 0,4191 gam, loại methamphetamine.

Bản Cáo trạng số 115/CT-VKSTU ngày 26-7-2019 của Viện kiểm sát Nhân dân thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương đã truy tố các bị cáo Trương Văn Ch, Nguyễn Trọng Nh và Nguyễn Thành T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên giữ nguyên quan điểm truy tố như cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Trương Văn Ch từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù.

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Nguyễn Trọng Nh từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù.

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Nguyễn Thành T từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù.

- Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Đề nghị Hội đồng xét xử xử lý theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa các bị cáo đồng ý với nội dung bản cáo trạng và quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên. Trong phần trình bày lời nói sau cùng các bị cáo đã nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, rất hối hận, ăn năn hối cải nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Tân Uyên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tình tiết định tội, định khung hình phạt: Các bị cáo Nguyễn Trọng Nh, Trương Văn Ch và Nguyễn Thành T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời nhận tội của các bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Nguyễn Trọng Nh và các chứng cứ có tại hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Ngày 13-02-2019, tại đoạn đường Khánh Bình 26 thuộc khu phố B, phường K, thị xã U, tỉnh Bình Dương, bị cáo Nguyễn Trọng Nh có hành vi tàng trữ 0,4191 gam ma túy, loại Methamphetamine với mục đích sử dụng thì bị bắt quả tang. Bị cáo Trương Văn Ch và Nguyễn Thành T không trực tiếp tàng trữ 0,4191gam, loại Methamphetamine với Nh nhưng Ch là người rủ rê, góp tiền và kêu Nh đi mua ma túy về sử dụng Ch, T là người trực tiếp đi mua ma túy mang về cho Nh để Nh tàng trữ sử dụng với Ch. Hành vi của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Như vậy, đủ căn cứ khẳng định nội dung Cáo trạng số 115/CT-VKSTU ngày 26-7-2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương truy tố các bị cáo theo tội danh và điều khoản như trên là có căn cứ, đứng người, đứng tội, đúng pháp luật.

Các bị cáo là người đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện. Hành vi phạm tội của các bị cáo là nghiêm trọng, hành vi này đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy. Ma túy là hiểm họa của xã hội, là tiền đề cho các tội phạm khác nảy sinh. Trước tình hình mua bán, nghiện hút ma túy đang diễn ra phức tạp như hiện nay, Nhà nước ta cấm mọi công dân tàng trữ, mua bán chất ma túy nhưng do sự tiếp tay của những đối tượng như bị cáo nên các tệ nạn liên quan đến ma túy vẫn đang là mối quan tâm, lo lắng của toàn xã hội. Do đó, cần phải xử lý nghiêm và cách ly ra ngoài xã hội một thời gian nhằm giáo dục cải tạo các bị cáo trở thành người có ích cho xã hội và để ngăn ngừa tội phạm. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt cần xem xét toàn diện về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo.

Vụ án có tính chất đồng phạm giản đơn, trong đó bị cáo Trương Văn Ch là người khởi xướng, rủ rê; bị cáo Nguyễn Thành T có nhân thân xấu, là người mua túy cho bị cáo Nguyễn Trọng Nh, bị cáo Nh là người thực hiện hành vi tàng trữ nên mức án của bị cáo CH phải cao hơn bị cáo Nh và T.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, bị cáo Nguyễn Thành T gia đình thuộc hộ nghèo là tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, Hội đồng xét xử giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo để các bị cáo thấy được chính sách khoan hồng của Nhà nước mà yên T cải tạo trở thành công dân có ích cho xã hội.

[5] Đối với đối tượng tên Xíu bán ma túy cho T, chưa xác định được nhân thân, lai lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên tiếp tục xác minh, làm rõ xử lý sau.

[6] Xét thấy, mức án và hướng xử lý vật chứng của đại diện Viện kiểm sát đề nghị tại phiên tòa là phù hợp nên chấp nhận.

[7] Về xử lý vật chứng:

Đối với 01 bìa thư đã được niêm phong có ký hiệu 168/PC09, có chữ ký người bị bắt Nguyễn Trọng Nh, người chứng kiến Nguyễn Văn Ngh, Phạm Ngọc T, bên trong có chứa 0,2627 gam, loại Methamphetamine là đối tượng hoàn lại sau giám định theo Bản kết luận giám định số 168/MT-PC09 ngày 15-02-2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương; 01 vỏ bao thuốc lá hiệu JET màu trắng và 01 đoạn ống hút bằng thủy tinh là vật chứng của vụ án nên tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Wave, không biển số, số khung: *LFA100200198125*, số máy 1P50FMG* 10098268* của bị cáo T, bị cáo sử dụng làm phương tiện phạm tội nên cần tịch thu sung Ngân sách Nhà nước.

Đối với 01 điện thoại di động màu đen hiệu Nokia, số sim 0994.509.629 của bị cáo Trương Văn Ch; 01 điện thoại di động hiệu Mastel màu đỏ, số sim 0961.640.014 của bị cáo Nguyễn Trọng Nh và 01 điện thoại di động hiệu Oppo màu bạc, số sim 0937.946.164 của bị cáo Nguyễn Thành T các bị cáo sử dụng để liên lạc mua ma túy nên tịch thu sung Ngân sách Nhà nước.

Đối với 01 điện thoại di động màu trắng hiệu ASUS, số sim 0964.719.361 của bị cáo Trương Văn Ch không liên quan đến việc phạm tội cần trả lại cho bị cáo.

[8] Về việc xem xét việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn: Cần tiếp tục tạm giam các bị cáo Trương Văn Ch, Nguyễn Trọng Nh và Nguyễn Thành T để đảm bảo việc thi hành án.

[9] Về án phí sơ thẩm: Các bị cáo phạm tội và bị kết án nên phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về trách nhiệm hình sự:

Tuyên bố các bị cáo Trương Văn Ch, Nguyễn Trọng Nh và Nguyễn Thành T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Trương Văn Ch 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 14-02-2019.

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Nguyễn Trọng Nh 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 14-02-2019.

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Nguyễn Thành T01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 14-02-2019.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 46, Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 bìa thư đã được niêm phong có ký hiệu 168/PC09, có chữ ký người bị bắt Nguyễn Trọng Nh, người chứng kiến Nguyễn Văn Ngh, Phạm Ngọc T, bên trong có chứa 0,2627 gam, loại Methamphetamine là đối tượng hoàn lại sau giám định theo Bản kết luận giám định số 168/MT-PC09 ngày 15-02-2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương; 01 vỏ bao thuốc lá hiệu JET màu trắng và 01 đoạn ống hút bằng thủy tinh.

- Tịch thu sung Ngân sách Nhà nước: 01 xe mô tô nhãn hiệu Wave, không biển số, số khung: *LFA100200198125*, số máy 1P50FMG* 10098268* xe không bửng, không gương chiếu hậu, mặt đồng hồ và đèn sau bị bể, xe hư hỏng nặng (không kiểm tra máy móc bên trong); 01 điện thoại di động màu đen hiệu Nokia, số sim 0994.509.629; 01 điện thoại di động hiệu Masstel màu đỏ, số sim 0961.640.014, màn hình và nắp sau màu đen và 01 điện thoại di động hiệu Oppo màu bạc, số sim 0937.946.164, bị bể màn hình.

- Trả lại cho bị cáo Trương Văn Ch: 01 điện thoại di động màu trắng, hiệu ASUS, số sim 0964.719.361, bị bể màn hình.

(Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 01-8-2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương).

3. Về án phí sơ thẩm: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Trương Văn Ch, Nguyễn Trọng Nh và Nguyễn Thành T mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

204
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 112/2019/HS-ST ngày 29/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:112/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;