Bản án 1036/2018/HNGĐ-PT ngày 14/11/2018 về tranh chấp ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 1036/2018/HNGĐ-PT NGÀY 14/11/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 14 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 95/2018/TLPT-HNGĐ ngày 07 tháng 9 năm 2018 về việc tranh chấp “Ly hôn”.

Do Bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 670/2018/HNGĐ-ST ngày 18 tháng 7 năm 2018 của Tòa án nhân dân quận Q, Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 4466/2018/QĐ-PT ngày 01 tháng 10 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm số 8579/2018/QĐ-PT ngày 22 tháng 10 năm 2018 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Mai Kim L, sinh năm 1989; (Có mặt).

- Bị đơn: Bà Lê Đặng Quý K, sinh năm 1990; (Vắng mặt).

Cùng địa chỉ: Số S đường D, Phường P, quận Q, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Người kháng cáo: Nguyên đơn ông Mai Kim L.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện và các bản tự khai, nguyên đơn ông Mai Kim L trình bày như sau:

Ông và bà Lê Đặng Quý K tự nguyện kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn số S1 quyển số 01/2011 do Ủy ban nhân dân Phường P, quận Q, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 13 tháng 6 năm 2011. Sau khi kết hôn và trong quá trình chung sống, giữa ông và bà K có nhiều mâu thuẫn, vợ chồng không còn sự hòa hợp, không có tiếng nói chung. Ông và bà K đã sống ly thân từ tháng 7 năm 2017 đến nay. Do không còn tình cảm với bà K, cuộc sống chung không hạnh phúc, ông L khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn bà Lê Đặng Quý K.

Về con chung: Ông và bà Lê Đặng Quý K có 01 con chung là Mai Thanh Kim T, giới tính: Nữ, sinh ngày 23 tháng 8 năm 2014. Ông đồng ý giao con chung cho bà K trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, ông cấp dưỡng nuôi con hàng tháng số tiền 4.000.000 đồng.

Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai và các biên bản hòa giải, bị đơn bà Lê Đặng Quý K trình bày như sau:

Bà đồng ý với nội dung ông Mai Kim L trình bày về việc đăng ký kết hôn và về con chung giữa hai người. Tuy nhiên, cuộc sống hôn nhân giữa bà và ông L rất hạnh phúc, đến năm 2016 bà phát hiện ông L không chung thủy nhưng bà mong muốn ông L thay đổi để cùng bà chăm sóc con chung, bà vẫn còn tình cảm với ông L nên không đồng ý ly hôn.

Về con chung: Trường hợp không thể hòa giải đoàn tụ được, bà đồng ý nuôi con chung và yêu cầu ông L cấp dưỡng hàng tháng số tiền từ 7.000.000 đồng đến 7.500.000 đồng.

Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại Bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 670/2018/HNGĐ-ST ngày 18 tháng 7 năm 2018, Tòa án nhân dân quận Q, Thành phố Hồ Chí Minh căn cứ:

- Khoản 1 Điều 28, Khoản 1 Điều 35, Điểm a Khoản 1 Điều 39, Điều 271 và 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Điều 51, Khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình;

- Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

- Điều 26 Luật Thi hành án dân sự; Tuyên xử: Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Mai Kim L.

Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 31 tháng 7 năm 2018, nguyên đơn ông Mai Kim L có đơn kháng cáo đề nghị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của vì ông cho rằng có đầy đủ căn cứ theo quy định tại Khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình để giải quyết cho ông được ly hôn.

Tại phiên tòa phúc thẩm, ông L giữ nguyên yêu cầu kháng cáo với lí do cuộc sống hôn nhân giữa ông và bà K hoàn toàn không có hạnh phúc, không còn khả năng hàn gắn, đoàn tụ; ông yêu cầu được giải quyết ly hôn với bà Lê Đặng Quý K. Về con chung, ông giữ nguyên ý kiến giao con chung cho bà K trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, ông cấp dưỡng nuôi con hàng tháng số tiền 4.000.000 đồng. Trường hợp bà K không đồng ý hoặc không đủ khả năng nuôi con, ông đồng ý là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu bà K cấp dưỡng. Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận kháng cáo của ông, sửa bản án sơ thẩm.

Bị đơn bà Lê Đặng Quý K đã được Tòa án triệu tập tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt không rõ lí do.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc tuân thủ pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn phúc thẩm có nêu: Thẩm phán, các thành viên Hội đồng xét xử, các đương sự trong vụ án đã thực hiện đầy đủ quy định của pháp luật về tố tụng dân sự. Bị đơn bà Lê Đặng Quý K vắng mặt, đề nghị Tòa án mở phiên tòa xét xử phúc thẩm vụ án theo quy định của pháp luật. Đề xuất đường lối giải quyết vụ án, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh có ý kiến: Mặc dù nguyên đơn ông Mai Kim L khởi kiện và cung cấp các thông tin về việc giữa ông L và bà K có mâu thuẫn vợ chồng nhưng không chứng minh được tình trạng hôn nhân đã ở mức độ trầm trọng; tại cấp sơ thẩm, bị đơn bà Lê Đặng Quý K xác định cuộc sống hôn nhân giữa hai người hạnh phúc, bà vẫn còn tình cảm với ông L nên không đồng ý ly hôn. Tòa án cấp sơ thẩm nhận định mối quan hệ hôn nhân giữa nguyên và bị đơn vẫn còn khả năng hàn gắn, đoàn tụ và không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có cơ sở. Đề nghị giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm, bác kháng cáo của nguyên đơn ông Mai Kim L. Do bản án sơ thẩm không giải quyết cho ly hôn và các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung, nợ chung nên đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không xem xét vấn đề này.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra công khai tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định:

I. Về thủ tục tố tụng:

Đơn kháng cáo của nguyên đơn ông Mai Kim L làm trong thời hạn luật định phù hợp với các quy định tại Điều 272, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự. Đương sự đã nộp tiền tạm ứng án phí kháng cáo theo quy định là hợp lệ nên được chấp nhận xem xét theo trình tự phúc thẩm.

II. Về nội dung:

Xem xét yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn ông Mai Kim L, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy:

 [1] Về quan hệ hôn nhân:

Ông Mai Kim L và bà Lê Đặng Quý K tự nguyện kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn số S1 quyển số 01/2011 do Ủy ban nhân dân Phường P, quận Q, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 13 tháng 6 năm 2011 được xác định là hôn nhân hợp pháp. Cho rằng tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc, ông L khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho ông được ly hôn bà K. Căn cứ vào lời trình bày của các bên đương sự, Tòa án nhân dân quận Q nhận định quan hệ hôn nhân giữa ông L và bà K chưa mâu thuẫn đến mức trầm trọng, vẫn còn khả năng hàn gắn đoàn tụ và bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Sau khi xét xử sơ thẩm, nguyên đơn ông Mai Kim L kháng cáo yêu cầu sửa bản án sơ thẩm theo hướng cho ly hôn và giải quyết vấn đề về con chung.

Xét, qua lời trình bày của các đương sự tại Tòa án cấp sơ thẩm và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; qua lời trình bày của nguyên đơn tại phiên tòa phúc thẩm thì quan hệ hôn nhân giữa ông Mai Kim L và bà Lê Đặng Quý K được hình thành trên cơ sở tự nguyện, xuất phát từ tình cảm giữa hai người. Sau khi kết hôn, cuộc sống chung giữa ông L và bà K hạnh phúc; hai người đã có với nhau 01 người con chung sinh năm 2014. Mặc dù cùng xác định là có mâu thuẫn vợ chồng nhưng xét thấy tình trạng hôn nhân chưa lâm vào tình trạng trầm trọng; trên nền tảng tình nghĩa vợ chồng, nếu các đương sự cố gắng tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, yêu thương, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng gia đình hạnh phúc và nuội dạy tốt con chung thì vẫn còn khả năng đoàn tụ. Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, không giải quyết cho ly hôn là có cơ sở và phù hợp với hoàn cảnh hiện tại. Do đó, cần bác kháng cáo của nguyên đơn, y án sơ thẩm như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa.

 [2] Về con chung: Do không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn nên Hội đồng xét xử phúc thẩm không xem xét giải quyết.

[3] Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết. [4] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do yêu cầu kháng cáo không được chấp nhận nên nguyên đơn phải chịu án phí dân sự phúc thẩm như luật định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Khoản 1 Điều 148, Khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Áp Điều 51, Khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

- Áp dụng Luật Thi hành án dân sự;

I. Chấp nhận đơn kháng cáo hợp lệ của nguyên đơn ông Mai Kim L vì làm trong thời hạn luật định.

II. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn ông Mai Kim L, giữ nguyên quyết định của Bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm 670/2018/HNGĐ-ST ngày 18 tháng 7 năm 2018 của Tòa án nhân dân quận Q, Thành phố Hồ Chí Minh như sau:

1. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ôngMai Kim L:

Về quan hệ hôn nhân: Không giải quyết cho ly hôn.

Về con chung: Do không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về quan hệ hôn nhân, không giải quyết cho ly hôn nên Tòa án không xem xét, giải quyết vấn đề con chung.

Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm:

Ông Mai Kim L phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm, được trừ vào 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền số AA/2017/0007324 ngày 23 tháng 11 năm 2017 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Q, Thành phố Hồ Chí Minh, đương sự đã thi hành xong án phí dân sự sơ thẩm.

III. Về án phí dân sự phúc thẩm:

Ông Mai Kim L phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng tiền án phí dân sự phúc thẩm, được trừ vào 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền số AA/2017/0008768 ngày 31 tháng 7 năm 2018 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Q, Thành phố Hồ Chí Minh, đương sự đã thi hành xong án phí dân sự phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án; quyền yêu cầu thi hành án; tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được áp dụng theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật ngay sau khi tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

214
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 1036/2018/HNGĐ-PT ngày 14/11/2018 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:1036/2018/HNGĐ-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;