Bản án 10/2021/HNGĐ-ST ngày 08/02/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐAN PHƯỢNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 10/2021/HNGĐ-ST NGÀY 08/02 /2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 08 tháng 02 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đan Phượng, Thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 277/2020/TLST- HNGĐ ngày 13 tháng 11 năm 2020 về Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 02/2021/QĐXXST - HNGĐ ngày 05 tháng 01 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 07/2021/QĐST-HNGĐ ngày 21 tháng 01 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1995; Địa chỉ: Cụm 2, xã H, huyện Đ, Thành phố Hà Nội; có mặt.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Đức T, sinh năm 1995; Địa chỉ: Thôn B, xã Đ, huyện Đan Phượng, Thành phố Hà Nội; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

 - Theo đơn khởi kiện và các lời khai tiếp theo, nguyên đơn là chị Nguyễn Thị H trình bày: Chị và anh Nguyễn Đức T tìm hiểu nhau một thời gian ngắn, thấy yêu thương nhau nên về chung sống cùng nhau. Sau một thời gian đến ngày 12 tháng 8 năm 2016 thì mới đi đăng ký kết hôn tại UBND xã Đồng Tháp, huyện Đan Phượng, Thành phố Hà Nội. Vợ chồng sống nhờ nhà ông bà ngoại và cậu mợ của anh T ở thôn B, xã Đ. Vợ chồng sống với nhau thời gian đầu sau khi cưới thì không mâu thuẫn nhưng càng sống với nhau càng cảm thấy vợ chồng tính tình không hợp, anh T không đi làm công việc gì, cũng không tạo ra thu nhập, vợ chồng không có nhà để ở, phải ở nhờ nên cũng bất tiện. Anh T không chịu khó đi làm kiếm tiền chăm lo cho cuộc sống gia đình, thường xuyên chơi lô đề, không chung thủy vẫn đi chơi, tán tỉnh, yêu thương người phụ nữ khác, chị có nói nhưng anh T không thay đổi. Sau khi sinh con xong, tháng 9/2016 chị về nhà bố mẹ đẻ ở cụm 2, xã H sinh sống. Vợ chồng ly thân từ tháng 9/2016 đến nay. Sau khi chị và con về nhà bố mẹ đẻ ở anh T không gọi điện hỏi thăm mẹ con chị. Vợ chồng ly thân đã lâu, tình cảm không còn, không liên lạc gì với nhau. Nay chị không còn tình cảm với anh T nữa và xin ly hôn anh T.

Về con chung: Chị Nguyễn Thị H và anh Trọng có 01 con chung là cháu Nguyễn Ngọc Phương L, sinh ngày 07/9/2016, hiện nay cháu L đang ở với chị H, ly hôn chị H có nguyện vọng nuôi cháu L và không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi cháu L.

Về tài sản: Vợ chồng sống với nhau không xây dựng, phát triển được tài sản gì chung.

Về công sức: không có.

Về nợ: Vợ chồng không nợ ai, không ai nợ vợ chồng.

- Bị đơn là anh Nguyễn Đức T sau khi thụ lý đơn khởi kiện của chị Nguyễn Thị H, Tòa án đã xác minh và niêm yết các văn bản tố tụng cho anh T biết các yêu cầu khởi kiện của chị H. Tuy nhiên, trong thời gian chuẩn bị xét xử, Tòa án đã nhiều lần thông báo, triệu tập để anh T đến Tòa án trình bày ý kiến, tham gia phiên họp và hòa giải nhưng anh T đều vắng mặt.

Tại phiên tòa chị Nguyễn Thị H vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện xin ly hôn anh Nguyễn Đức T, xin nuôi con chung là cháu Nguyễn Ngọc Phương L, sinh ngày 07/9/2016, không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung, về tài sản: không có; về công sức với gia đình: không có; về nợ: vợ chồng không có nợ chung. Anh Nguyễn Đức T đã được Tòa án triệu tập đến phiên tòa lần thứ hai nhưng vắng mặt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đan Phượng phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật của những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56; Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 147; Điều 271; Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội; chấp nhận đơn khởi kiện của chị Nguyễn Thị H xử cho chị H được ly hôn anh Nguyễn Đức T. Về quyền nuôi con chung, giao cháu Nguyễn Ngọc Phương L, sinh ngày 07/9/2016 cho chị H nuôi dưỡng. Do chị Nguyễn Thị H không yêu cầu nên anh T không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Về tài sản chung, nợ chung không phải giải quyết. Về án phí: Đương sự phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về tố tụng: Nguyên đơn là chị Nguyễn Thị H có đơn xin ly hôn anh Nguyễn Đức T có địa chỉ cư trú tại thôn B, xã Đ, huyện Đan Phượng, Thành phố Hà Nội xác định là quan hệ tranh chấp về ly hôn, nuôi con chung nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Đan Phượng theo qui định tại khoản 1 điều 28; điểm a khoản 1 điều 35; khoản 3 điều 36; điểm a khoản 1 điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã thực hiện đầy đủ trình tự tố tụng theo qui định của pháp luật. Tuy nhiên, anh Nguyễn Đức T đều vắng mặt nên Tòa án không ghi lời khai, không tiến hành hòa giải được vụ án. Vì vậy, căn cứ Điều 220 và Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án đã ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử. Anh Nguyễn Đức T vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai nên Tòa án tiến hành xét xử vụ án theo qui định của pháp luật.

[2]. Về nội dung vụ án: Quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị H và anh Nguyễn Đức T trên cơ sở kết hôn tự nguyện, đăng ký kết hôn ngày 12/8/2016 tại Ủy ban nhân dân xã Đồng Tháp, huyện Đan Phượng, Thành phố Hà Nội nên được xác định là hôn nhân hợp pháp theo qui định tại khoản 1 Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình.

Quá trình chung sống vợ chồng giữa chị H và anh T do không quan tâm đến nhau, không cùng nhau chia sẻ khó khăn trong cuộc sống, vợ chồng bất đồng quan điểm nên tình cảm nhạt dần, dẫn đến chị H đã cùng con về nhà bố mẹ đẻ của chị H sinh sống từ tháng 9 năm 2016, vợ chồng ly thân thời gian dài từ đó đến nay. Chị H xác định tình cảm vợ chồng với anh T không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên xin ly hôn. Anh T tuy đã được thông báo, triệu tập nhiều lần đến Tòa án để trình bày ý kiến và Tòa án hòa giải việc ly hôn nhưng đều vắng mặt. Điều đó cho thấy anh T không có nguyện vọng để cải thiện và hàn gắn tình cảm vợ chồng. Vì vậy, tình trạng hôn nhân của chị Nguyễn Thị H và anh Nguyễn Đức T đã đến mức trầm trọng, mục đích của hôn nhân không đạt được, cuộc sống chung không còn tồn tại. Vì vậy, căn cứ khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị Nguyễn Thị H, xử cho chị H được ly hôn với anh Nguyễn Đức T.

Về con chung: Chị Nguyễn Thị H và anh Nguyễn Đức T có 01 con chung là là cháu Nguyễn Ngọc Phương L, sinh ngày 07/9/2016. Hiện nay cháu L đang được chị H trực tiếp nuôi dưỡng, để đảm bảo quyền lợi cũng như ổn định cuộc sống của cháu, nên giao cháu Nguyễn Ngọc Phương L cho chị Nguyễn Thị H trực tiếp nuôi dưỡng. Chị H không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung nên không buộc anh T phải cấp dưỡng nuôi con chung với chị H. Anh T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung theo qui định của pháp luật.

Tài sản chung, về công sức với gia đình, về nợ chung: Chị Nguyễn Thị H xác định không có, do đó Hội đồng xét xử không xem xét.

[3]. Về án phí: Chị Nguyễn Thị H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 28; Điều 35; Điều 39; Điều 147, Điều 266; Điều 271, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc xin ly hôn của chị Nguyễn Thị H.

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị H được ly hôn anh Nguyễn Đức T.

- Về con chung: Giao cháu Nguyễn Ngọc Phương L, sinh ngày 07/9/2016 cho chị Nguyễn Thị H nuôi cho đến khi cháu Nguyễn Ngọc Phương L đủ 18 tuổi hoặc khi có quyết định khác của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Chị Nguyễn Thị H không yêu cầu nên tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi cháu L đối với anh Nguyễn Đức T cho đến khi có yêu cầu mới hoặc khi có quyết định khác của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Anh Nguyễn Đức T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở.

- Về tài sản chung, về công sức với gia đình, về nợ chung: Chị Nguyễn Thị H xác định không có nên không giải quyết.

2. Về án phí: Chị Nguyễn Thị H phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0014665 ngày 13/11/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội.

3. Quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị H có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Anh Nguyễn Đức T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo qui định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

196
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 10/2021/HNGĐ-ST ngày 08/02/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:10/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đan Phượng - Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;