Bản án 09/2021/HNGĐ-ST ngày 09/06/2021 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẠC LIÊU

BẢN ÁN 09/2021/HNGĐ-ST NGÀY 09/06/2021 VỀ LY HÔN

Ngày 09 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 11/2021/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 4 năm 2021 về việc ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 11/2021/QĐXXST- HNGĐ ngày 24 tháng 5 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1976 (có đơn xin vắng mặt);

Địa chỉ: Ấp 3, xã P, thị xã G, tỉnh Bạc Liêu.

2. Bị đơn: Anh Lý H, sinh năm 1976 (có đơn xin vắng mặt);

Địa chỉ: Số 3825 Laurier #102 Montreal Canada.

Chỗ ở hiện nay: 165 Rue Claude-leveillee, Vaudereuil-Dorion, Canada.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 30/3/2021 và biên bản lấy lời khai ngày 17/5/2021, nguyên đơn chị Nguyễn Thị T trình bày: Chị và anh Lý H tự nguyện kết hôn tại Ủy ban nhân dân tỉnh Bạc Liêu và đã được cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 07/02/1998. Sau khi kết hôn chị và anh Lý H chung sống với nhau được khoảng 01 tháng tại nhà cha mẹ anh H ở ấp 3, xã P, thị xã G, tỉnh Bạc Liêu, trong khoảng thời gian này anh H có làm hồ sơ, thủ tục để bảo lãnh chị sang Canada để vợ chồng đoàn tụ, hồ sơ thủ tục và kết quả phỏng vấn chị đạt được các điều kiện để sang Canada, nhưng cũng trong khoảng thời gian chung sống này vợ chồng phát sinh nhiều bất đồng, không phù hợp nhau dẫn đến vợ chồng xảy ra nhiều mâu thuẫn, nên sau khi về Canada anh H hủy toàn bộ thủ tục bảo lãnh chị sang Canada và từ đó anh H cũng cắt đứt liên lạc với chị, đến khoảng năm 2019 tình cờ chị kết bạn được với anh H trên mạng xã hội Facebook, nên trao đổi qua lại về quan hệ hôn nhân thì cả hai đều đồng ý ly hôn, nên anh H làm văn bản thuận tình ly hôn gửi về Việt Nam cho chị. Về con chung, tài sản chung và nợ chung: Chị Thương xác định vợ chồng không có, nên không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

Đối với bị đơn anh Lý H: Sau khi thụ lý, Tòa án nhận được đơn yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn đề ngày 04/4/2021 được hợp pháp hóa lãnh sự ngày 08/4/2021 và đơn xin xét xử vắng mặt đề ngày 26/4/2021 được hợp pháp hóa lãnh sự ngày 04/5/2021, nội dung anh Lý H xác định: Anh và chị Nguyễn Thị T có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân tỉnh Bạc Liêu và được cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 07/02/1998. Trong thời gian chung sống vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, do cuộc sống chung không hòa hợp, tình cảm vợ chồng ngày càng rạn nứt không thể hàn gắn được nữa và từ tháng 6 năm 1998 vợ chồng không còn liên lạc, quan tâm đến nhau, nên nay anh cũng đồng ý thuận tình ly hôn theo yêu cầu của chị Nguyễn Thị T. Về con chung, tài sản chung và nợ chung anh xác định vợ chồng không có con chung, tài sản chung và nợ chung.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bạc Liêu trình bày quan điểm về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án:

+ Về thủ tục tố tụng: Thông qua kiểm sát việc giải quyết vụ án từ khi thụ lý vụ án tới thời điểm này thấy rằng Thẩm phán đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án. Quá trình giải quyết Tòa án tống đạt các văn bản tố tụng cho đương sự và Viện kiểm sát đúng theo quy định. Tại phiên tòa hôm nay, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm.

+ Về nội dung vụ án: Chị Nguyễn Thị T và anh Lý H có đăng ký kết hôn và được Ủy nhân dân tỉnh Bạc Liêu cấp giấy chứng nhận kết ngày 07/02/1998 là hoàn toàn tự nguyện, do đó, hôn nhân của anh chị là hợp pháp theo pháp luật Việt Nam. Sau khi kết hôn anh chị có chung sống với nhau trong thời gian ngắn, anh Lý H có làm thủ tục bảo lãnh chị T sang Canada nhưng chị T không sang Canada được nên hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thực hiện được, nay anh H cũng có văn bản đồng ý ly hôn với chị T, nên có căn cứ giải quyết cho anh chị ly hôn là phù hợp pháp luật. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận đơn khởi kiện xin ly hôn của chị Nguyễn Thị T, xử cho chị Nguyễn Thị T được ly hôn với anh Lý H. Về con chung, tài sản chung và nợ chung anh chị thống nhất xác định không có, không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết, nên không đặt ra xem xét, giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, nghe ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên, sau khi thảo luận, nghị án; Hội đồng xét xử nhận định:

[2] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn anh Lý H là người Việt Nam, có quốc tịch Canada và đang cư trú tại địa chỉ: Số 165 Rue Claude-leveillee, Vaudereuil- Dorion, Canada, nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu, theo quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 3 Điều 35 và khoản 1 Điều 37 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Sau khi thụ lý vụ án, chị Nguyễn Thị T nộp đầy đủ các văn bản ghi nhận ý kiến của anh H được hợp pháp hóa lãnh sự theo quy định của pháp luật, nên Tòa án không thực hiện thủ tục ủy thác tư pháp để tống đạt văn bản tố tụng cho anh H theo quy định của pháp luật. Do anh H có đơn xin vắng mặt, nên căn cứ điểm a khoản 5 Điều 477 Bộ luật Tố tụng dân sự, xét xử vắng mặt anh H.

[4] Đối với nguyên đơn chị Nguyễn Thị T, ngày 17/5/2021 chị có đơn xin xét xử vắng mặt, xét thấy, đơn xin xét xử vắng mặt của chị T phù hợp với quy định pháp luật, nên căn cứ điểm a khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt đối với chị Nguyễn Thị T. Do nguyên đơn và bị đơn đều có đơn xin xét xử vắng mặt, nên Tòa án tiến hành xét xử vụ án vắng mặt tất cả những người tham gia tố tụng theo đúng quy định tại Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[5] Về nội dung vụ án: Xét quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị T và anh Lý H, theo chị T xác định chị và anh Lý H tự nguyện kết hôn, có đăng ký ký kết hôn theo quy định của pháp luật Việt Nam và căn cứ giấy chứng nhận kết hôn do Ủy nhân dân tỉnh Bạc Liêu cấp giấy ngày 07/02/1998 thì đủ cơ sở xác định hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị T và anh Lý H là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật Việt Nam bảo vệ. Theo đơn khởi kiện xin ly hôn và lời khai của chị Nguyễn Thị T có cơ sở xác định, sau khi kết hôn chị T và anh H chỉ chung sống với nhau trong một thời gian ngắn thì anh H về Canada sinh sống và đến nay anh H không sang Việt Nam nữa. Nay chị T xác định hôn nhân của chị và anh H không tiếp tục chung sống với nhau được nữa, vì chị ở Việt Nam không sang Canada được, còn anh H không quan tâm đến chị và không sang Việt Nam nữa, không bảo lãnh chị sang Canada để vợ chồng đoàn tụ, nên chị yêu cầu được ly hôn.

[6] Hội đồng xét xử xét thấy, theo Điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình”, theo đó thì giữa chị Nguyễn Thị T và anh Lý H đã không còn yêu thương, quan tâm, chăm sóc giúp đỡ nhau, hiện nay chị T và anh H không còn liên lạc với nhau, làm cho hôn nhân của anh chị lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thực hiện được do mỗi người ở một nơi và không thể đoàn tụ, mục đích của hôn nhân không đạt được. Do đó, có căn cứ chấp nhận đơn khởi kiện của chị Nguyễn Thị T, cho chị được ly hôn với anh Lý H.

[7] Về quan hệ con chung, tài sản chung và nợ chung: Chị Nguyễn Thị T và anh Lý H thống nhất xác định vợ chồng không có con chung, tài sản chung và nợ chung, khi ly hôn cả hai không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, giải quyết.

[8] Xét đề nghị của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận đơn khởi kiện xin ly hôn của chị Nguyễn Thị T, xử cho chị Nguyễn Thị T được ly hôn anh Lý H; về con chung, tài sản chung, nợ chung không có không xem xét giải quyết. Hội đồng xét xử xét thấy, đề nghị của Kiểm sát viên là có căn cứ, phù hợp pháp luật nên được chấp nhận.

[9] Về án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân và gia đình, chị Nguyễn Thị T phải chịu toàn bộ theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 28; khoản 3 Điều 35; khoản 1 Điều 37; điểm a khoản 2 Điều 227; Điều 228; Điều 238; Điều 273; Điều 280; điểm d khoản 1 Điều 469; Điều 474; Điều 479 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, khoản 1 Điều 122, khoản 2 Điều 123 và Điều 127 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/ 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị T với anh Lý H.

Xử cho chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1976 được ly hôn với anh Lý H, sinh năm 1976.

2. Về con chung, tài sản chung và nợ chung: Chị Nguyễn Thị T và anh Lý H không có con chung, tài sản chung và nợ chung, không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.

3. Án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân và gia đình: Chị Nguyễn Thị T phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng), chị Nguyễn Thị T đã nộp tạm ứng án phí số tiền 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng), theo Biên lai thu số 0000009 ngày 26/4/2021, tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bạc Liêu được chuyển thu án phí.

Án xử sơ thẩm công khai, chị Nguyễn Thị T có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ; anh Lý H có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 01 (một) tháng kể từ ngày Bản án được tống đạt hợp lệ hoặc kể từ ngày Bản án được niêm yết hợp lệ theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

296
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 09/2021/HNGĐ-ST ngày 09/06/2021 về ly hôn

Số hiệu:09/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bạc Liêu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 09/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;