Bản án 07/2017/HNGĐ-ST ngày 14/09/2017 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẠ HUOAI, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 07/2017/HNGĐ-ST NGÀY 14/09/2017 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 14 tháng 9 năm 2017 tại phòng xử án của Tòa án nhân dân huyện Đạ Huoai, tỉnh Lâm Đồng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 31/2017/TLST- HNGĐ ngày 22 tháng 5 năm 2017 về tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 07/2017/QĐXXST-HNGĐ ngày 11 tháng 8 năm 2017 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Đinh Thị H – sinh năm: 1987

Trú tại: Thôn 5- xã P – huyện H – tỉnh Lâm Đồng. (Có mặt)

2. Bị đơn: Ông Đinh Mạnh H – sinh năm: 1977

Trú tại: Thôn 5- xã P – huyện H – tỉnh Lâm Đồng.

 (Vắng mặt lần thứ hai không có lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 16 tháng 5 năm 2017 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn bà Đinh Thị H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà H và ông H tự nguyện tìm hiểu, yêu thương nhau. Sau đó, bà H và ông H có đi đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã P, huyện H, tỉnh Lâm Đồng vào ngày 19/9/2006. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2015 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn chủ yếu là do ông H có quan hệ ngoại tình. Mặc dù bà H đã nhiều lần khuyên nhủ để ông H thay đổi nhưng không có kết quả. Đến nay ông H vẫn còn duy trì quan hệ ngoại tình, bà H và ông H không ai còn quan tâm đến ai, không ai muốn hàn gắn tình cảm gia đình, mâu thuẫn gia đình đã trầm trọng, tình cảm của bà H với ông H không còn, mục đích hôn nhân không đạt được vì vậy bà H yêu cầu được ly hôn với ông Đinh Mạnh H.

Về con chung: Bà H và ông H có 01 con chung là Đinh Thị Băng B – sinh ngày 15/01/2007. Hiện nay con chung đang ở với bà H, khi ly hôn bà H yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung. Về cấp dưỡng nuôi con tại đơn khởi kiện bà H yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con hàng tháng mỗi tháng 700.000đ nhưng ngày 22/8/2017 bà H đã có đơn xin rút một phần yêu cầu của mình về cấp dưỡng nuôi con và bà H không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Bà H và ông H tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Bà H và ông H không có nợ chung.

Ngoài ra bà Đinh Thị H không trình bày hay yêu cầu gì khác.

Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã triệu tập hợp lệ bị đơn ông Đinh Mạnh H và đưa vụ án ra hòa giải nhiều lần nhưng ông H đều vắng mặt không có lý do vì vậy Tòa án không thu thập được lời khai của ông H về nội dung của vụ án và vụ án cũng không tiến hành hòa giải được.

Toà án đã tiến hành đầy đủ các thủ tục cấp, tống đạt các Quyết định xét xử, Quyết định hoãn phiên toà, giấy triệu tập hợp lệ nhưng ông Đinh Mạnh H vẫn vắng mặt đến lần thứ hai nên Tòa án vẫn tiến hành xét xử theo quy định của pháp luật.

Tại bản tự khai ngày 22/6/2017 của cháu Đinh Thị Băng B thì nguyện vọng của cháu B khi ba mẹ cháu là bà H và ông H ly hôn là được ở với bà H vì bà H có thể chăm sóc, nuôi dưỡng, cho cháu B đi học và có cuộc sống đầy đủ. Hiện nay cháu B đang ở với bà H. Nguyện vọng của cháu B là hoàn toàn tự nguyện không bị ai ép buộc.

Tại phiên tòa hôm nay bà Đinh Thị H vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

Ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đạ Huoai, tỉnh Lâm Đồng tại phiên tòa về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án: Bài phát biểu đã đánh giá Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án đã chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; đánh giá nguyên đơn bà Đinh Thị H chấp hành đúng quy định tại các Điều 70, 71, 234 của Bộ luật tố tụng dân sự, bị đơn ông Đinh Mạnh H không chấp hành đúng quy định tại các Điều 70, 72, 234 của Bộ luật tố tụng dân sự như không có mặt tại phiên tòa sơ thẩm không có lý do. Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án như sau: Đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện ly hôn của bà Đinh Thị H, cho bà Đinh Thị H được ly hôn với ông Đinh Mạnh H. Về con chung: Cháu Đinh Thị Băng B có nguyện vọng sau khi bố mẹ ly hôn thì cháu xin được ở với mẹ nên đề nghị Hội đồng xét xử giao cháu B cho bà Đinh Thị H nuôi dưỡng, ông Đinh Mạnh H không phải cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung: Bà H và ông H tự thỏa thuận nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét. Về công nợ chung: Bà H và ông H không có nợ chung, không ai yêu cầu bà H, ông H thực hiện nghĩa vụ trả nợ chung nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét. Đại diện Viện kiểm sát không có kiến nghị gì.

Các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án:

Các tài liệu, chứng cứ bà Đinh Thị H cung cấp cho Tòa án: 01 Giấy chứng nhận kết hôn ngày 19/9/2006 của ông Đinh Mạnh H và bà Đinh Thị H (bản chính); 01 Biên bản giao nhận của ông Đinh Mạnh H và bà Đinh Thị H (Bản chính); 01 Sổ hộ khẩu của hộ ông Đinh Mạnh H (Bản sao); 01 Giấy chứng minh nhân dân của bà Đinh Thị H (Bản sao); 01 Giấy khai sinh mang tên Đinh Thị Băng B (Bản sao).

Tài liệu, chứng cứ do Tòa án thu thập: 02 Bản tự khai ngày 22/6/2017 của bà Đinh Thị H và cháu Đinh Thị Băng B; 02 Biên bản xác minh ngày 05/6/2017 và ngày 13/7/2017.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Bà Đinh Thị H và ông Đinh Mạnh H có quan hệ hôn nhân hợp pháp. Bà H khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với ông H. Ông H có nơi cư trú tại thôn 5, xã P, huyện H, tỉnh Lâm Đồng. Vì vậy, theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự đây là vụ án tranh chấp ly hôn và Tòa án nhân dân huyện Đạ Huoai – tỉnh Lâm Đồng thụ lý giải quyết theo thủ tục sơ thẩm là đúng thủ tục tố tụng.

Bị đơn ông Đinh Mạnh H vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai. Căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bị đơn ông Đinh Mạnh H là đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Hội đồng xét xử xét thấy hôn nhân giữa bà H và ông H là hôn nhân tự nguyện, bà H và ông H có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã P, huyện H, tỉnh Lâm Đồng ngày 19/9/2006 nên là hôn nhân hợp pháp.

Xét yêu cầu xin ly hôn của bà Đinh Thị H thì: Nguyên nhân bà H xin ly hôn với ông H là do ông H có quan hệ ngoại tình, mặc dù bà H đã cố gắng khuyên nhủ ông H để hàn gắn tình cảm gia đình nhưng không có kết quả, từ đó khiến cho mâu thuẫn gia đình ngày càng trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn. Hiện nay vợ chồng bà H, ông H không ai còn quan tâm đến ai, không ai còn mong muốn hàn gắn tình cảm gia đình, ông H vẫn tiếp tục duy trì quan hệ ngoại tình. Theo kết quả xác minh tại Hội liên hiệp phụ nữ xã P, huyện H, tỉnh Lâm Đồng thì ông H có quan hệ bất chính với người phụ nữ khác đã được 04-05 năm. Tuy nhiên vợ chồng ông H bà H không đưa lên chính quyền giải quyết, tình trạng hôn nhân giữa bà H và ông H là không duy trì được. Về phía bị đơn ông Đinh Mạnh H sau khi Tòa án thụ lý vụ án thì Tòa án đã thực hiện việc niêm yết các văn bản tố tụng và triệu tập hợp lệ ông H đến Tòa án hòa giải nhằm giải quyết mâu thuẫn gia đình, hàn gắn tình cảm vợ chồng để vợ chồng trở về đoàn tụ nhưng ông H vẫn không đến và cũng không cho Tòa án biết ý kiến của mình đối với yêu cầu của bà H điều này chứng tỏ ông H không có thiện chí trong việc giải quyết mâu thuẫn gia đình và hàn gắn tình cảm vợ chồng.

Như vậy có thể thấy rằng mâu thuẫn vợ chồng giữa bà H và ông H là có xảy ra trên thực tế. Tình trạng mâu thuẫn vợ chồng giữa bà H và ông H đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, tình cảm vợ chồng không còn, không ai còn mong muốn hàn gắn tình cảm gia đình, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, căn cứ Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình thì Hội đồng xét xử xét thấy cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà H đối với ông H là có cơ sở pháp luật và phù hợp với thực tế.

[3] Về con chung: Bà H và ông H có 01 con chung là Đinh Thị Băng B, sinh ngày 15/01/2007 (thể hiện trong giấy khai sinh của Đinh Thị Băng B có họ tên cha là Đinh Mạnh H, họ và tên mẹ là Đinh Thị H). Bà H trình bày hiện nay bà H đang là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung. Cháu Đinh Thị Băng B cũng xác nhận hiện nay đang ở với bà H. Mặc dù Tòa án không ghi nhận được ý kiến của ông H về con chung nhưng xét thấy hiện nay cháu Đinh Thị Băng B đang do bà H nuôi dưỡng, cháu B vẫn phát triển bình thường và đang có cuộc sống ổn định với bà H. Bên cạnh đó cháu B cũng có nguyện vọng được ở với mẹ là bà H vì vậy để không làm ảnh hưởng đến cuộc sống hiện tại hay tâm lý của con chung cũng như đảm bảo nguyện vọng và quyền lợi về mọi mặt của con chung Hội đồng xét xử xét thấy cần giao con chung cho bà H tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp.

Về cấp dưỡng nuôi con: Bà H không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con chung là ý chí tự nguyện của bà H và không trái pháp luật do đó Hội đồng xét xử ghi nhận.

[4] Về tài sản chung: Bà H và ông H không yêu cầu Tòa án giải quyết về phần tài sản chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về nợ chung: Bà H và ông H không có nợ chung, không ai yêu cầu bà H, ông H thực hiện nghĩa vụ trả nợ chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí: Bà Đinh Thị H khởi kiện ly hôn nên phải nộp 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) tiền án phí ly hôn sơ thẩm là phù hợp với quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 31/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 266 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ vào các Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 và Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình;

Căn cứ vào khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 31/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa bà Đinh Thị H và ông Đinh Mạnh H.

2. Về con chung: Giao con chung Đinh Thị Băng B, sinh ngày 15/01/2007 cho bà Đinh Thị H tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng.

Ông Đinh Mạnh H không phải cấp dưỡng nuôi con.

Quyền đi lại thăm nom con, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con; quyền thay đổi người trực tiếp nuôi con; thay đổi mức cấp dưỡng được thực hiện theo quy định Luật hôn nhân và gia đình.

3. Về án phí: Bà Đinh Thị H phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) tiền án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng mà bà H đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2015/0007783 ngày 22/5/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đạ Huoai, tỉnh Lâm Đồng. Bà Đinh Thị H đã nộp đủ tiền án phí ly hôn sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Đương sự có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án hôm nay. Đối với đương sự vắng mặt thì thời hạn kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc ngày bản án được niêm yết để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử theo thủ tục phúc thẩm.

5. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

286
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 07/2017/HNGĐ-ST ngày 14/09/2017 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:07/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đạ Huoai - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;