Bản án 06/2021/HNGĐ-ST ngày 22/01/2020 về ly hôn

A ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÓC SƠN - THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 06/2021/HNGĐ-ST NGÀY 22/01/2020 VỀ LY HÔN

Ngày 22 tháng 01 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sóc Sơn, Thành phố Hà Nội, xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và Gia đình thụ lý số: 745/2020/TLST - HNGĐ ngày 07 tháng 12 năm 2020 về việc ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 01/2021/QĐST - HNGĐ ngày 06 tháng 01 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1969 Địa chỉ: Thôn Xuân L, xã Tân Dân, huyện Sóc Sơn, Hà Nội

2. Bị đơn: Nguyễn Thị H - sinh năm 1977 HKTT: Thôn Xuân L, xã Tân Dân, huyện Sóc Sơn, Hà Nội Nơi ở: Thôn Trung N, xã Thanh Xuân, huyện Sóc Sơn, Hà Nội. Có mặt: Ông Đ, bà H

NỘI DUNG VỤ ÁN

[1]. Quan điểm khởi kiện của nguyên đơn, ông Nguyễn Văn Đ trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân và mâu thuẫn vợ chồng:

Ông và bà Nguyễn Thị H lấy nhau tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Tân Dân, huyện Sóc Sơn, Hà Nội vào ngày 29/3/2013. Sau khi cưới thì vợ chồng ông về chung sống tại nhà ông ở thôn Xuân L, xã Tân Dân, huyện Sóc Sơn, Hà Nội.

Ông bà chung sống bình thường được khoảng 03, 04 tháng thì phát sinh mâu thuẫn do vợ chồng không hợp nhau về mọi mặt của cuộc sống, bà H không chịu khó, tính luộm thuộm. Vợ chồng còn có khác biệt về cách chi tiêu trong gia đình. Ngoài mâu thuẫn vợ chồng thì bà H còn mâu thuẫn với những người thân trong gia đình ông, cãi nhau tay đôi với các chị của ông, cuộc sống không có hạnh phúc, thường xuyên cãi chửi nhau. Mâu thuẫn của vợ chồng ông đã được gia đình H giải nhưng không có kết quả. Tháng 02.2015, bà H đã về nhà mẹ của bà ở thôn Trung N, xã Thanh Xuân, huyện Sóc Sơn, Hà Nội ở và vợ chồng ông ở riêng từ đó đến nay, không có trách nhiệm gì với nhau.

Năm 2019 ông có làm đơn xin ly hôn bà H tại Tòa án nhân dân huyện Sóc Sơn. Ngày 09/11/2019, Tòa án nhân dân huyện Sóc Sơn đã xét xử không chấp nhận yêu cầu ly hôn của ông. Từ sau khi Tòa án bác đơn của ông cho đến nay, vợ chồng ông vẫn ly thân, không quan tâm không có trách nhiệm gì với nhau, tình cảm không hề được cải thiện.

Nay ông xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn đã kéo dài nhiều năm nay không thể khắc phục vì vậy ông đề nghị Tòa án giải quyết cho ông được ly hôn bà H.

Về con chung: Ông và bà H có 01 con chung là: Nguyễn Văn C - sinh ngày 04/01/2014 Hiện cháu đang ở với ông. Ly hôn, ông xin được trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Việc cấp dưỡng nuôi con, ông không yêu cầu Tòa án giải quyết. Hiện ông làm ruộng và làm thợ xây tự do, thu nhập bình quân 5.000.000 đồng/tháng. Do ông làm nghề lao động tự do nên không có xác nhận về mức thu nhập để giao nộp cho Tòa án.

Ông xin được trực tiếp nuôi con vì bà H thường xuyên đi làm đêm, không có điều kiện chăm sóc con. Hơn nữa, mặc dù là con đẻ nhưng thỉnh thoảng cháu có về ở với bà H vài ngày thì bà H tính đếm từng đồng. Bà H từ trước kia đến giờ đều không muốn trông nom chăm sóc con để còn có thời gian đi làm kiếm tiền, chỉ có gần đây bà lại đòi nuôi con mục đích là để được ông chia đất cho cháu chứ không phải thực sự muốn nuôi cháu.

Về tài sản chung, công sức, vay nợ: Ông không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.

[2]. Quan điểm của bị đơn là bà Nguyễn Thị H trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân và mâu thuẫn vợ chồng:

Bà nhất trí với ông Đ về thời gian, hoàn cảnh, điều kiện kết hôn và quá trình chung sống. Ông bà chung sống bình thường được khoảng 02 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do vợ chồng mâu thuẫn về kinh tế, bà đi làm còn ông Đ ở nhà trông nom con thì ông Đ bắt bà đưa tiền chi tiêu nhưng bà không đưa vì bà xác định bà chỉ có trách nhiệm với con chung chứ không có trách nhiệm nuôi ông Đ. Bà có trách nhiệm mua đồ ăn cho con, ông Đ phải tự có trách nhiệm đóng tiền điện sinh hoạt và tự nuôi bản thân nhưng ông Đ cũng không làm được. Chính vì vậy mà vợ chồng thường xuyên cãi nhau, chửi nhau, đánh nhau. Vợ chồng bà thường xuyên mâu thuẫn nhiều năm nay, hai bên không tin tưởng nhau về kinh tế.

Ngoài ra ông Đ còn lăng nhăng, có quan hệ nam nữ ở bên ngoài. Tháng 02.2015, do ông Đ muốn đưa người phụ nữ khác về nhà sống cùng nên có đuổi bà đi nên bà đã về nhà mẹ của bà ở thôn Trung N, xã Thanh Xuân, huyện Sóc Sơn, Hà Nội ở từ đó đến nay. Tuy là bà về nhà mẹ đẻ nhưng thỉnh thoảng ông Đ vẫn gọi điện cho bà về vì nhu cầu sinh lý. Chính vì vậy mà có nhiều lần bà không về. Bà không có tài liệu chứng cứ gì về việc ông Đ ngoại tình vì bà không sử dụng điện thoại thông minh để lưu lại.

Trong thời gian bà về nhà mẹ đẻ ở thì con chung ở với ông Đ, bà vẫn có trách nhiệm thỉnh thoảng mua thức ăn và sữa cho con. Tuy nhiên có một thời gian ông Đ đưa con sang cho bà nuôi nhưng bản thân ông Đ không chịu làm ăn nên bà lại đưa con sang cho ông Đ nuôi để bà còn có thời gian đi làm kiếm tiền.

Bà và ông Đ mâu thuẫn nhiều năm, không chung sống với nhau thường xuyên nhiều năm nay nhưng bản thân bà vẫn thấy hạnh phúc, vì bà chỉ yêu một mình ông Đ, cả đời chỉ có một người chồng nên bà nhất định không đồng ý ly hôn.

Năm 2019 ông Đ có làm đơn xin ly hôn bà tại Tòa án nhân dân huyện Sóc Sơn nhưng bà không đồng ý. Ngày 09/11/2019, Tòa án nhân dân huyện Sóc Sơn đã xét xử không chấp nhận yêu cầu ly hôn của ông Đ. Từ sau khi Tòa án bác đơn của ông Đ cho đến nay thì bà vẫn ở nhà mẹ đẻ bà, chỉ thỉnh thoảng ông Đ gọi về vì nhu cầu sinh lý thì bà về vài hôm rồi lại đi. Bà không thể ở lại với ông Đ vì bà không thể bỏ tiền ra để lo chi tiêu sinh hoạt cho ông Đ được, ông Đ phải tự lo cho bản thân.

Nay bà xác định tình cảm vợ chồng vẫn còn, mãi mãi còn, bà chỉ yêu một mình ông Đ nhưng không chấp nhận về ở với ông Đ để chi tiêu hầu hạ ông Đ.

Về con chung: Bà và ông Đ có 01 con chung là: Nguyễn Văn C - sinh ngày 04/01/2014 Hiện cháu đang ở với ông Đ, do bà không đồng ý ly hôn nên bà không đưa ra quan điểm về việc nuôi con. Nếu bắt buộc ly hôn thì bà xin được nuôi con và ông Đ phải chia đất cho con, ít nhất là hơn 1/2 thửa đất hiện nay của ông Đ. Nếu bà nuôi con thì bà yêu cầu ông Đ đóng góp nuôi con 1.000.000đ/tháng.

Hiện bà làm bảo vệ tại Công ty SEI ở khu công nghiệp Quang Minh, Mê Linh, Hà Nội, thu nhập bình quân 7.000.000 đồng/tháng.

Về tài sản chung, công sức, vay nợ: Bà và ông Đ cũng không xây dựng được gì trên đất của gia đình ông Đ, ông bà cũng không chung về kinh tế, ai đi làm thì tự tiết kiệm và tự giữ. Tuy nhiên nếu ly hôn, bà nuôi con chung thì ông Đ phải chia đất cho con bà. Tòa án cũng đã yêu cầu bà cung cấp tài liệu chứng cứ về tài sản bà yêu cầu chia nhưng bà không có tài liệu gì để cung cấp cho Tòa án. Hơn nữa, bà xác định không đồng ý ly hôn nên bà cũng không cần yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản, đất đai. Tại phiên tòa hôm nay bà yêu cầu ông Đ phải trả cho bà 20.000.000đ bà đưa xây nhà và 1.000.000đ là tiền gạch, cát bố bà cho ông Đ.

Tại phiên tòa, ông Đ vẫn giữ nguyên yêu cầu được ly hôn bà H và xin được trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Bà H không nhất trí ly hôn với ông Đ và nếu ly hôn thì bà xin được trực tiếp nuôi con chứ không đồng ý để ông Đ nuôi con.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Sóc Sơn phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật Tố tụng dân sự của Thẩm phán, Thư ký và Hội đồng xét xử từ khi thụ lý vụ án cho đến trước khi Hội đồng xét xử nghị án đã tuân thủ đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn, bị đơn đều đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của ông Nguyễn Văn Đ; Giao con chung chưa thành niên là cháu Nguyễn Văn Chiến cho ông Nguyễn Văn Đ trực tiếp nuôi dưỡng và không phải giải quyết vấn đề cấp dưỡng nuôi con do hai bên không có yêu cầu. Không chấp nhận yêu cầu chia tài sản của bà H. Ông Đ phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ; căn cứ kết quả thẩm tra chứng cứ tại phiên tòa; căn cứ việc hỏi tại phiên tòa; căn cứ kết quả tranh tụng công khai tại phiên tòa; trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Ông Nguyễn Văn Đ và bà Nguyễn Thị H kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Tân Dân, huyện Sóc Sơn, Hà Nội vào ngày 29/3/2013. Như vậy hôn nhân của ông bà là hợp pháp. Ông Đ và bà H đều có nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và có nơi cư trú tại huyện Sóc Sơn, Thành phố Hà Nội, do vậy Tòa án nhân dân huyện Sóc Sơn thụ lý và giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28, Điều 35 và Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về tình cảm vợ chồng và nguyên nhân mâu thuẫn:

Ông Nguyễn Văn Đ và bà Nguyễn Thị H cùng thừa nhận là vợ chồng có mâu thuẫn từ trước khi Toà án huyện Sóc Sơn thụ lý vụ án. Ông Đ xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn không thể khắc phục được, ông bà đã sống ly thân nhiều năm nay nên không có hạnh phúc, nay ông xin được ly hôn bà H. Bà H xác định tuy là vợ chồng có nhiều mâu thuẫn, từ khi kết hôn đến nay chủ yếu là ông bà ở riêng nhưng bà xác định suốt đời này bà chỉ có một chồng, nên ông Đ xin ly hôn bà không nhất trí.

Hội đồng xét xử xét thấy: Ông Đ và bà H kết hôn từ năm 2013 nhưng đến năm 2015 ông bà đã ở riêng từ năm 2015 cho đến nay, chỉ thỉnh thoảng bà H về ở với con vài ngày rồi lại về nhà mẹ đẻ ở. Ông bà không hợp nhau về nhiều mặt trong cuộc sống, không cùng nhau phát triển kinh tế và không cùng gánh vác công việc gia đình, không quan tâm, không có trách nhiệm với nhau, không ở cùng nhau để quan tâm chăm sóc cho nhau. Mâu thuẫn của ông bà đã kéo dài nhiều năm nay. Năm 2019 ông Đ đã xin ly hôn bà H và Tòa án nhân dân huyện Sóc Sơn đã xét xử, không chấp nhận yêu cầu ly hôn của ông Đ, tuy nhiên ông bà vẫn sống ly thân từ đó cho đến nay, không quan tâm, không có trách nhiệm gì với nhau. Bà H tuy không đồng ý ly hôn nhưng sau khi Tòa án xử không chấp nhận yêu cầu ly hôn của ông Đ thì bà cũng không quay về sống cùng ông Đ, bà cũng không có giải pháp nào để cải thiện tình cảm của vợ chồng. Như vậy, cuộc sống của ông bà không còn hạnh phúc và mục đích hôn nhân không đạt được.

Nay ông Đ đề nghị Tòa án giải quyết được ly hôn với bà H, thấy cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của ông Nguyễn Văn Đ là phù hợp với quy định tại Khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình.

[3] Về con chung và việc cấp dưỡng nuôi con chung sau ly hôn:

Ông Nguyễn Văn Đ và bà Nguyễn Thị H thống nhất xác định có 01 con chung là Nguyễn Văn C - sinh ngày 04/01/2014. Hiện cháu khỏe mạnh bình thường và chủ yếu sống cùng ông Đ. Sau khi ly hôn ông Đ và bà H đều có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con chung.

Xét điều kiện ông Đ làm nghề lao động tự do, bà H làm công việc bảo vệ, thường xuyên đi làm đêm; từ nhỏ đến nay, con chung chủ yếu ở với ông Đ và do ông Đ trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng; qua xác minh tại địa phương và qua việc ghi ý kiến của cháu Chiến thì cháu muốn được ở với ông Đ. Do vậy, sau khi ly hôn, giao con chung cho ông Đ trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình. Ông Đ không yêu cầu Tòa án giải quyết việc cấp dưỡng nuôi con nên ghi nhận sự tự nguyện của ông.

Sau khi ly hôn bà H có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con chung, không ai được cản trở theo quy định tại khoản 3 Điều 82, Khoản 2 Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình.

[4] Về tài sản chung, công sức, vay nợ: Trong suốt quá trình Tòa án giải quyết vụ án, ông Đ đều không có yêu cầu Tòa án giải quyết. Bà H có yêu cầu ông Đ phải chia đất ở cho con chứ bà không có yêu cầu chia cho bản thân mình. Bà cũng xác định đất ở là của gia đình ông Đ cho riêng ông Đ từ trước khi ông bà kết hôn, ông bà cũng không xây dựng được tài sản gì trên đất, quá trình đi làm thì bà cũng tích cóp tiền để riêng chứ không chung kinh tế với ông Đ, bà chỉ muốn ông Đ chia đất cho con chứ không cần cho bản thân vì bà đã có nhà đất ở tại nhà mẹ đẻ của bà. Tòa án cũng đã yêu cầu bà H làm đơn yêu cầu chia tài sản, giao nộp các tài liệu chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của mình nhưng bà H đã không giao nộp vì bà xác định bà không có được những tài liệu chứng cứ về nhà đất của ông Đ và bà không nhất trí ly hôn nên bà cũng không cần yêu cầu chia nhà đất. Tại phiên tòa hôm nay bà H yêu cầu ông Đ trả 21.000.000đ nhưng bà không xuất trình được chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của mình, nên tách yêu cầu này dành quyền khởi kiện cho bà trong một vụ kiện dân sự khác.

[5] Về án phí: Ông Nguyễn Văn Đ phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định tại Điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQHH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

[6] Về quyền kháng cáo: Ông Nguyễn Văn Đ, bà Nguyễn Thị H có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên, 

Căn cứ vào:

QUYẾT ĐỊNH

- Khoản 1 Điều 28; Điều 35; Điều 39; khoản 4 Điều 147; Điều 271; Điều 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

- Điều 51; Khoản 1 Điều 56; Khoản 1, 2 Điều 81, Khoản 3 Điều 82 và Khoản 2 Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình.

- Điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQHH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện ly hôn của ông Nguyễn Văn Đ.

2. Ông Nguyễn Văn Đ được ly hôn với bà Nguyễn Thị H.

3. Về con chung: Xác nhận ông bà có 01 con chung là cháu Nguyễn Văn C - sinh ngày 04/01/2014, giao con chung cho ông Đ trực tiếp nuôi dưỡng. Ghi nhận sự tự nguyện không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con của ông Đ.

Bà Nguyễn Thị H có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con chung, không ai được cản trở.

4. Về tài sản chung, công sức, vay nợ: Ghi nhận sự tự nguyện của ông Nguyễn Văn Đ, tách yêu cầu đòi ông Đ 21.000.000đ của bà H, dành quyền khởi kiện cho bà trong một vụ kiện dân sự khác.

5. Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Ông Nguyễn Văn H phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn) đồng nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng ông đã nộp theo biên lai số AA/2018/19314 ngày 07/12/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Sóc Sơn, Hà Nội. Ông Đ đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm, ông Nguyễn Văn Đ và bà Nguyễn Thị H có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

225
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 06/2021/HNGĐ-ST ngày 22/01/2020 về ly hôn

Số hiệu:06/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sóc Sơn - Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;