Bản án 04/2021/HS-PT ngày 06/01/2021 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 04/2021/HS-PT NGÀY 06/01/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 06 tháng 01 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số:333/2020/TLPT-HS ngày 03 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo Lê Văn Ch do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 49/2020/HS-ST ngày 22 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện TM.

- Bị cáo có kháng cáo:

Lê Văn Ch (tên gọi khác: Cui), sinh năm 1994, tại tỉnh Đồng Tháp; Nơi cư trú: Khóm 4, thị trấn M, huyện TM, tỉnh Đồng Tháp; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 02/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính : Nam; Con ông Lê Văn S (chết) và bà Nguyễn Thị Thu S (chết); Vợ, con: Chưa có;

- Tiền án: Có 03 tiền án:

+ Ngày 24/02/2014, bị Tòa án nhân dân huyện TM xử phạt 02 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 13/9/2015;

+ Ngày 20/5/2016, bị Tòa án nhân dân huyện TM xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt ngày 12/12/2016;

+ Ngày 14/11/2018, bị Tòa án nhân dân huyện CL xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 06/9/2019.

- Tiền sự: Ngày 15/3/2018, bị Tòa án nhân dân huyện TM đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 12 tháng. Đến ngày 05/9/2018, bỏ trốn ra ngoài cơ sở điều trị nghiện và có hành vi trộm cắp tài sản của người khác thì bị Công an huyện CL bắt giữ.

- Nhân thân:

+ Ngày 04/9/2007, bị đưa vào trường giáo dưỡng 24 tháng về hành vi trộm cắp tài sản theo Quyết định số 131/QĐUB ngày 20/8/2007 của Ủy ban nhân dân huyện TM, Đồng Tháp.

+ Ngày 03/9/2009, bị đưa vào trường giáo dưỡng 24 tháng về hành vi gây rối trật tự công cộng theo Quyết định số 161/UBND ngày 27/7/2009 của Ủy ban nhân dân huyện TM, Đồng Tháp.

+ Ngày 31/8/2012, bị đưa vào cơ sở giáo dục 12 tháng về hành vi trộm cắp tài sản theo Quyết định số 726/QĐ ngày 27/8/2012 của Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Tháp.

Tạm giữ ngày: 05/4/2020; Tạm giam ngày: 08/4/2020.

Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Đồng Tháp (có mặt).

Ngoài ra, trong vụ án còn có bị cáo Văn Văn U, các bị hại không kháng cáo và Viện kiểm sát không kháng nghị.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo Văn Văn U và Lê Văn Ch là bạn. Vào khoảng 10 giờ ngày 20/01/2020, bị cáo U đến uống nước giải khát tại quán đối diện với nhà của bị cáo Ch ở khu dân cư khóm 4, thị trấn M, huyện TM, tỉnh Đồng Tháp. Khi thấy U, thì Ch đến ngồi chung bàn gọi nước uống cùng với U. U khai trong lúc ngồi uống nước, Ch rủ U điều khiển xe mô tô đi theo các tuyến đường tìm nhà người dân có sơ hở để lấy trộm tài sản bán chia nhau tiêu xài thì U đồng ý.

Ch điều khiển xe mô tô biển số 66M1-456.12 của U, chở U đi trên tuyến tỉnh lộ 846, hướng từ khóm 1, thị trấn M đi xã M, xã Đ, huyện TM, tỉnh Đồng Tháp để tìm tài sản lấy trộm. Khi đi đến đoạn đường phía trước nhà của bà Võ Thị X thuộc ấp 3, xã Đ, huyện TM, tỉnh Đồng Tháp, Ch quan sát thấy nhà của bà X mở cửa, không có người bên trong nhà nên điều khiển xe quay ngược lại đậu cách nhà bà X 09m để U vào tìm lấy trộm tài sản. U lén lút vào nhà của bà X, đi đến vị trí bàn tròn đặt ở giữa nhà lấy trộm điện thoại Samsung Galaxy A5 của con bà X là chị Trần Thị Thu Th để trên bàn rồi đi ra ngoài cất giấu vào bên trong người của mình. U tiếp tục quay lại nhà của bà X đi đến nơi có nhiều thùng bia chất chồng lên nhau lấy trộm thêm điện thoại di động Oppo F11 Green của bà X rồi cất giấu vào bên trong người, sau đó đi ra ngoài lên xe để Ch điều khiển chở khỏi hiện trường. U khai là đưa điện thoại cho Ch bán, chia được số tiền là 600.000 đồng.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 05/KLĐG, ngày 17/02/2020 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện TM kết luận tại thời điểm bị mất trộm, điện thoại Oppo F11 Green trị giá 4.200.000 đồng, điện thoại Samsung Galaxy A5 trị giá 4.000.000 đồng. Tổng giá trị tài sản là 8.200.000 đồng.

Quá trình điều tra, ban đầu bị cáo U khai nhận chỉ lấy trộm điện thoại Samsung Galaxy A5 và khai rõ vai trò đồng phạm của bị cáo Ch như đã nêu trên. Tuy nhiên, sau đó U thay đổi lời khai nhằm bao che cho Ch. Bị cáo Ch không thừa nhận hành vi phạm tội của mình. Tuy nhiên, với những tài liệu chứng cứ đã thu thập, hoàn toàn có cơ sở để chứng minh cho hành vi phạm tội của Ch và U.

Đối với xe mô tô biển số 66M1-456.12 mà U sử dụng làm phương tiện đi trộm cắp tài sản là xe của U mua nhưng chưa làm thủ tục đăng ký chủ sở hữu, sử dụng chung trong gia đình. Xe này, hiện U đã bán lại cho anh Huỳnh Quan Đ với giá 9.000.000 đồng. U sử dụng số tiền này cùng tiền cá nhân của mình mua xe mô tô nhãn hiệu Sirius biển số 66V1-171.89 của anh Nguyễn Văn G với giá là 12.700.000 đồng nhưng chưa làm thủ tục đăng ký quyền sở hữu tài sản.

Ngoài lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản cùng với bị cáo Văn Văn U như đã nêu trên, quá trình điều tra chứng minh được bị cáo Lê Văn Ch còn một lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của anh Nguyễn Ngọc Nh cụ thể như sau:

Vào khoảng 13 giờ, ngày 05/4/2020, bị cáo Lê Văn Ch một mình điều khiển xe mô tô biển số 51N4-8109 của bạn gái là chị Trần Thị Hồng B, đi từ thị trấn M đến ấp MN1, xã MQ, huyện TM, tỉnh Đồng Tháp thì thấy anh Nguyễn Ngọc Nh đang nằm ngủ trên võng trước nhà, trên người có để 01 chiếc điện thoại hiệu Samsung J7 pro. Ch dừng xe lại và đậu xe cách khoảng 13m rồi đến chỗ anh Nh ngủ giả vờ hỏi mua thuốc hút. Anh Nh ngủ say, không hay biết nên không trả lời. Ch lén lút lấy chiếc điện thoại của anh Nh cầm trên tay trái rồi đi ra chỗ xe đậu định tẩu thoát thì bị anh Nh thức dậy phát hiện tri hô và đuổi theo Ch. Khi cách khoảng 0,5m mét, anh Nh dùng chân đạp ngã xe và Ch xuống mặt đường làm rớt điện thoại của anh Nh cặp lề đường. Lúc này, có anh Nguyễn Văn Nhàn là người địa phương đến hiện trường còn thấy chiếc điện thoại còn nằm dưới mặt đường. Ch dùng dao bấm mang theo trong người định tấn công anh Nh thì Nh lùi lại, Ch tiếp tục lên xe định bỏ chạy thì bị anh Nh dùng chân đạp ngã xe lần nữa. Ch lấy thêm cây côn nhị khúc trong xe của Ch cầm trên 02 tay gồm 02 hung khí, tay phải cầm côn, tay trái cầm dao, Ch dùng côn đánh trúng vùng chân trái anh Nh gây thương tích thì anh Nh lùi lại. Ch tiếp tục lên xe định bỏ chạy thì anh Nh tiếp tục dùng chân đạp ngã xe lần thứ 3, Ch lấy trong xe ra 01 cây roi điện tiếp tục tấn công anh Nh thì lúc này có nhiều người đến vây bắt Ch nên Ch cầm dao bấm và roi điện bỏ chạy, trên đường bỏ chạy Ch ném bỏ lại roi điện, khi đến sông Cái Bèo thì Ch nhảy xuống sông lội qua bờ bên kia bỏ trốn thì bị người dân và Công an xã MQ bắt giữ. Việc Ch lấy xe của chị B đi trộm cắp tài sản, chị B không biết.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 18/KLĐG ngày 06/4/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện TM kết luận tại thời điểm bị chiếm đoạt điện thoại di động hiệu SamSung J7 Pro của anh Nguyễn Ngọc Nh trị giá 2.200.000 đồng.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 112, ngày 09/4/2020 của Trung tâm pháp y- Sở y tế tỉnh Đồng Tháp đối với Nguyễn Ngọc Nh, kết luận: Vết xây sát da dưới đùi trái do vật tày tác động, tỷ lệ tổn thương cơ thể là 08% tại thời điểm giám định. Anh Nguyễn Ngọc Nh có đơn không yêu cầu khởi tố Ch tội cố ý gây thương tích.

Quá trình từ khi bị bắt quả tang đến nay, bị cáo Lê Văn Ch không thừa nhận hành vi phạm tội trộm cắp tài sản mà khai chỉ đến nhà bị hại Nguyễn Ngọc Nh hỏi mua thuốc hút, không thừa nhận có lấy điện thoại của anh Nh. Tuy nhiên, căn cứ lời khai bị hại Nguyễn Ngọc Nh, những người làm chứng tại hiện trường ngay khi vụ án xảy ra, biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản khám nghiệm hiện trường, bản kết luận định giá tài sản, mối quan hệ giữa bị cáo, bị hại, diễn biến sự việc, hành vi của bị cáo và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ căn cứ xác định Lê Văn Ch lấy trộm chiếc điện thoại di động hiệu SamSung J7 pro màu vàng của anh Nguyễn Ngọc Nh.

Về thu giữ và xử lý vật chứng:

Đối với lần trộm cắp tài sản của bà X và chị Th Cơ quan điều tra đã thu giữ:

- Thu giữ của bị cáo Văn Văn U: Tiền Việt Nam 980.000 đồng, 01 điện thoại di động hiệu Coolpad, 01 điện thoại di dộng hiệu Oppo A37F; 01 xe mô tô nhãn hiệu Sirius mang biển số 66V1-171.89; 01 nón kết màu đen; một áo thun dài tay màu xám đen, trên ngực áo có dòng chữ không rõ nghĩa.

- Một đĩa CD – R80 bên trong chứa 03 đoạn video được trích xuất từ camera của nhà bà X, ghi lại hình ảnh vụ trộm cắp tài sản.

- Thu giữ của anh Huỳnh Quan Đ: một xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave anpha màu trắng xám, mang biển số 66M1-456.12 và một giấy đăng ký xe mô tô số 034546. Đây là xe mô tô mà anh Đ mua lại của bị cáo U.

Đối với lần trộm cắp tài sản của anh Nh, Cơ quan điều tra đã thu giữ: 01 điện thoại di động hiệu SamSung J7 pro màu vàng; 01 xe mô tô biển số 51N4-8109; 01 roi điện màu đen nâu đã bị gẫy đôi, có chiều dài 21 cm; 01 cây côn nhị khúc bằng kim loại màu trắng; 01 tua vít sài 21cm, phần thân tay cầm bằng nhựa màu xanh dài 8,5cm; 01 đèn chiếu sáng 06 bóng kích thước 8,5 x 11cm; 01 dao thái lan dài 20,5cm, phần lưỡi bằng kim loại dài 11,5cm, rộng 1,7cm,01; 01 đùm thắng đĩa xe mô tô màu bạc; 01 con dao bấm bằng kim loại màu trắng, dài 20cm, lưỡi dao có chữ USA; 01 cái ví, bên trong có: tiền Việt Nam 100.000 đồng, 01 tờ tiền nước Mỹ mệnh giá 01 USD, 02 tờ tiền Malaysia số AAL 3266667 và AEW 1679472, 04 tờ tiền Campudia mệnh giá 100 số seri 1015360, 6997865, 4383418, 3504890, 03 tờ tiền Campudia mệnh giá 1000 số seri 6797504, 01 tờ tiền Singapore số seri 3NM500419, 01 tờ tiền Philippins số seri PP807595; 01 điện thoại di động hiệu Masstel, không kiểm tra chất lượng bên trong.

Xét thấy, không cần thiết tạm giữ, Cơ quan cảnh sát Điều tra đã trả lại cho anh Nguyễn Ngọc Nh 01 điện thoại di động hiệu SamSung J7 pro màu vàng; trả lại chị Trần Thị Hồng B 01 xe mô tô biển số 51N4-8109.

Về trách nhiệm dân sự: bà X và chị Th yêu cầu bị cáo Ch và U bồi thường giá trị tài sản bị chiếm đoạt theo kết luận của Hội đồng định giá, tổng cộng là 8.200.000 đồng; anh Nh đã nhận lại tài sản không yêu cầu bồi thường gì thêm.

Tại Bản án số 49/2020/HS-ST ngày 22/9/2020 của Tòa án nhân dân huyện TM đã quyết định:

1. Tuyên bố: Bị cáo Lê Văn Ch (Cui) và bị cáo Văn Văn U (U Tà Lõn) phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Xử phạt:

Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 173; điểm g, h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự, xử phạt:

Bị cáo Lê Văn Ch (Cui) 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, ngày 05/4/2020.

Căn cứ khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự, xử phạt:

Bị cáo Văn Văn U (U Tà Lõn) 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, ngày 12/02/2020.

Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, trách nhiệm dân sự, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 29 tháng 9 năm 2020, bị cáo Lê Văn Ch có đơn kháng cáo cho rằng bị cáo không có tội. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Lê Văn Ch thay đổi kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát Tỉnh phát biểu quan điểm: Hành vi của bị cáo Lê Văn Ch bị Tòa án cấp sơ thẩm quy kết về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm đ khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng quy định của pháp luật. Xét mức hình phạt 05 năm 06 tháng tù mà Tòa án cấp sơ thẩm tuyên là phù hợp. Sau khi án sơ thẩm tuyên, bị cáo kháng cáo cho rằng không phạm tội, sau đó bị cáo thay đổi kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Mặc dù, tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội và xin giảm nhẹ nhưng xét mức hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng đối với bị cáo là thỏa đáng, bị cáo có nhân thân xấu, 03 tiền án, phạm tội với 02 tình tiết tăng nặng. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lê Văn Ch. Giữ nguyên phần Quyết định của bản án sơ thẩm về hình phạt đối với bị cáo.

Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội không tranh luận. Nói lời sau cùng, bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong quá trình điều tra, truy tố, các cơ quan và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của các cơ quan, người tiến hành tố tụng là phù hợp với quy định của pháp luật.

[2] Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo Lê Văn Ch không nhận tội. Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Lê Văn Ch đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng, kết quả định giá và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở xác định: Bị cáo Lê Văn Ch có 03 tiền án về tội Trộm cắp tài sản chưa được xóa án tích nhưng lại tiếp tục thực hiện 02 lần hành vi trộm cắp tài sản, cụ thể:

Lần 1: Vào khoảng 10 giờ ngày 20/01/2020, bị cáo Ch chở bị cáo U đến khu vực ấp 3, xã Đ, huyện TM, Ch quan sát thấy nhà bà X mở cửa và không có người trong nhà nên dừng xe cách nhà bà X khoảng 09 m để bị cáo U lẽn vào nhà bị hại X lấy trộm 02 điện thoại di động. Kết luận định giá là 8.200.000 đồng.

Lần 2: Khoảng 13 giờ ngày 05/4/2020, bị cáo Ch điều khiển xe chạy hướng từ thị trấn M đi ấp MN1, xã MQ, huyện TM phát hiện bị hại Nguyễn Ngọc Nh đang nằm ngủ trên võng trước nhà, trên người có để 01 cái điện thoại, thấy bị hại ngủ say bị cáo lén lút lấy trộm chiếc điện thoại và tẩu thoát tnhưng bị hại phát hiện và đuổi theo thì bị cáo dùng dao bấm, côn và cây roi điện tấn công bị hại để tẩu thoát. Theo kết luận định giá thì tài sản bị cáo chiếm đoạt của bị hại là 2.200.000 đồng.

[3] Xét thấy, bị cáo là người đã trưởng thành, đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, có đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi, nhận thức được tài sản hợp pháp của công dân được pháp luật bảo vệ, mọi hành vi xâm phạm tài sản của người khác đều bị pháp luật xử lý. Tuy nhiên, để có tiền tiêu xài mà không phải bỏ ra công sức lao động vất vả bị cáo đã có hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác một cách trái pháp luật. Giá trị tài sản bị cáo lấy trộm đều trên 2.000.000 đồng. Hơn nữa, bị cáo có 03 tiền án về tội Trộm cắp tài sản chưa được xóa án tích. Khi bị phát hiện bị cáo còn có hành vi dùng hung khí tấn công bị hại để tẩu thoát. Do đó, hành vi của bị cáo bị Tòa án cấp sơ thẩm xét xử về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm đ khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật. Bị cáo vừa chấp hành xong án phạt vào ngày 06/9/2019, đáng lẽ ra bị cáo phải biết ăn năn hối cải về sai lầm trước đây của bản thân để cố gắng lao động chân chính, tạo thu nhập nuôi sống bản thân nhưng bị cáo lại không làm được điều đó, lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội thể hiện bị cáo xem thường pháp luật. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp quyền sở hữu tài sản của người khác một cách trái pháp luật, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an ở địa phương, gây hoang mang trong quần chúng nhân dân.

[4] Bị cáo phạm tội với 02 tình tiết tăng nặng quy định tại điểm g, h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Xét mức án 05 năm 06 tháng tù mà Tòa án cấp sơ thẩm tuyên là thỏa đáng với tính chất và mức độ mà hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, cần thiết có mức hình phạt như án sơ thẩm đã tuyên mới đủ thời gian cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho gia đình, xã hội và cũng răn đe phòng ngừa chung cho toàn xã hội. Bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ nào mới theo quy định của pháp luật để Hội đồng xét xử xem xét. Mặc dù, tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như án sơ thẩm đã xét xử đối với bị cáo nhưng Hội đồng xét xử xét thấy mức hình phạt mà án sơ thẩm đã tuyên đối với bị cáo là phù hợp .

[5] Do đó, Hội đồng xét xử thống nhất với quan điểm đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát, không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Lê Văn Ch. Giữ nguyên phần quyết định của bản án sơ thẩm về hình phạt đối với bị cáo.

[6] Đối với hành vi dùng côn nhị khúc gây thương tích cho bị hại Nguyễn Ngọc Nh nhằm tẩu thoát với tỷ lệ tổn thương cơ thể 08% nhưng bị hại không yêu cầu khởi tố nên không xem xét giải quyết là phù hợp.

[7] Do kháng cáo của bị cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự. Không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Lê Văn Ch. Giữ nguyên phần quyết định của bản án hình sự sơ thẩm về hình phạt đối với bị cáo Lê Văn Ch.

Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g, h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Lê Văn Ch phạm tội“Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Lê Văn Ch 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 05/4/2020.

Về án phí: Bị cáo Lê Văn Ch phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

Các phần khác của quyết định án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

211
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

 Bản án 04/2021/HS-PT ngày 06/01/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:04/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;