Bản án 04/2019/HSST ngày 15/03/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUY AN, TỈNH PHÚ YÊN

BẢN ÁN 04/2019/HSST NGÀY 15/03/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 15 tháng 3 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tuy An t ử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 01/2019/HSST ngày 28 tháng 01 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2019/QĐXXST-HS ngày 27 tháng 02 năm 2019 đối với bị cáo:

Dương Cảnh P (Cu K) - sinh năm 1984, tại tỉnh Phú Yên; Nơi cư trú: Khu phố C, thị trấn C, huyện T, tỉnh Phú Yên; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 6/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Dương T - sinh năm 1954 và bà Bùi Thị O - sinh năm 1956;

Tiền án:

+ Ngày 07/4/2016, bị Tòa án nhân dân thị xã S, tỉnh Phú Yên xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội trộm cắp tài sản.

+ Ngày 20/5/2016, bị Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Phú Yên xử phạt 09 tháng tù về tội trộm cắp tài sản. Tổng hợp hình phạt của 02 bản án là 02 năm tù;

Đến ngày 04/11/2017, Dương Cảnh P chấp hành xong hình phạt tù. 

Tiền sự: Không; Nhân thân:

+ Ngày 29/01/2015, bị Công an thị trấn C, huyện T, tỉnh Phú Yên xử phạt hành chính với số tiền 1.500.000 đồng về hành vi trộm cắp tài sản.

+ Ngày 23/11/2018, bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố T, tỉnh Quảng Nam khởi tố bị can về tội trộm cắp tài sản.

Bị cáo bị tạm giam trong vụ án khác, có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Anh Bùi Xuân T, sinh năm 1969

Trú tại: Khu phố C, thị trấn C, huyện T, tỉnh Phú Yên. Có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Ca Thị N - sinh năm 1968

Trú tại: Khu phố C, thị trấn C, huyện T, tỉnh Phú Yên. Vắng mặt.

- Người làm chứng: Anh Chống Nhật L - sinh năm 1991; Trú tại: Thôn H, xã A, huyện T, tỉnh Phú Yên Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 01 giờ 00 phút ngày 18/6/2018, Dương Cảnh P lén lút vào phòng bệnh nhân khoa cấp cứu của Trung tâm y tế huyện T thuộc Khu phố T thị trấn C huyện T tỉnh Phú Yên. Thấy điện thoại di động màn hình cảm ứng hiệu Mobii star Zumbo J2 của anh Bùi Xuân T để trên giường bệnh (anh T đang nuôi vợ bệnh là chị Ca Thị N), nên P l n lút đi đến lấy điện thoại. Sau đó P đem điện thoại di động đến cửa hàng N tại khu phố C thị trấn C huyện T để bán thì bị anh T đi ngang qua thấy nên lấy lại điện thoại và yêu cầu P cùng đi đến cơ quan Công an thị trấn C huyện T để báo cáo vụ việc trên đường đi do lo sợ nên P bỏ đi về nhà của mình. Đến khoảng 10 giờ 00 phút cùng ngày anh T đến nhà của P để lấy lại sim điện thoại của anh T và tiếp tục yêu cầu P đến Công an thị trấn C báo cáo vụ việc nhưng trên đường đi thì P bỏ trốn.

Tại kết luận định giá số 14/KL-HĐ ngày 09/8/2018 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện T kết luận 01 điện thoại di động màn hình cảm ứng hiệu Mobii star Zumbo J2 màu trắng số Imel 359252420131991 có giá trị là 750.000 đồng.

Tại bản cáo trạng số 01/CT-VKS ngày 24/01/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy An đã truy tố bị cáo Dương Cảnh P về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm b khoản 1 điều 173 Bộ luật hình sự. 

Tại phiên tòa:

- Bị cáo Dương Cảnh P khai nhận hành vi phạm tội như lời khai tại cơ quan điều tra và các tài liệu chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án.

- Đại diện Viện kiểm sát thực hiện quyền công tố phát biểu luận tội, giữ nguyên quyết định truy tố như nội dung bản cáo trạng 01/CT-VKS ngày 24/01/2019. Sau khi phân tích hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bị cáo phạm tội trộm cắp tài sản, áp dụng điểm b khoản 1 điều 173; điểm b, s khoản 1, 2 điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo P từ 06 đến 09 tháng tù.

Về bồi thường dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bồi thường nên không xét.

- Bị cáo không tranh luận, in giảm nhẹ hình phạt và xin lỗi bị hại.

- Bị hại đã nhận lại tài sản không yêu cầu bồi thường, in giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tuy An Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy An và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo Dương Cảnh P tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra cũng như lời khai của bị hại người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác đã thu thập có trong hồ sơ vụ án về thời gian địa điểm diễn biến hành vi bị cáo đã thực hiện; phù hợp với vật chứng của vụ án là tài sản bị cáo đã chiếm đoạt. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 01 giờ 00 phút ngày 18/6/2018 tại Trung tâm y tế huyện T thuộc khu phố T thị trấn C huyện T tỉnh Phú Yên, Dương Cảnh P đã có hành vi lén lút lấy trộm 01 điện thoại di động màn hình cảm ứng hiệu Mobii star Zumbo J2 của anh Bùi Xuân T trị giá 750.000 đồng.

Dương Cảnh P đã bị kết án về tội trộm cắp tài sản chưa được óa án tích mà còn thực hiện hành vi ngày 18/6/2018 nêu trên, nên Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy An tỉnh Phú Yên đã truy tố hành vi của bị cáo về tội trộm cắp tài sản là có căn cứ đúng người đúng tội đúng pháp luật. Vì vậy có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo đã phạm tội trộm cắp tài sản tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 1 điều 173 Bộ luật hình sự.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội đã trực tiếp xâm hại trái pháp luật đến quyền sở hữu của công dân, làm ảnh hưởng ấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo là người đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật hình sự. Bị cáo đã 02 lần bị xử phạt tù về tội trộm cắp tài sản, nhưng không chịu sửa chữa lỗi lầm làm ăn lương thiện mà tiếp tục thực hiện tội phạm là thể hiện ý thức xem thường việc chấp hành pháp luật. Do đó, chấp nhận đề nghị của Kiểm sát viên, áp dụng hình phạt tù tương ứng tính chất, mức độ do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra mới đủ tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Quá trình giải quyết vụ án, bị cáo đã thành khẩn khai báo và được người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt nên áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự cho bị cáo. Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đề nghị áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự khắc phục hậu quả theo điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự là không có căn cứ chấp nhận.

[4] Về trách nhiệm bồi thường dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bồi thường nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Đối với người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt, nhưng không có yêu cầu nên không xét.

[6] Về xử lý vật chứng vụ án: Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc điện thoại cho anh T là đúng pháp luật, nên không xét.

[7] Về án phí: Dương Cảnh P bị kết án phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 1 điều 173; điểm s khoản 1, 2 điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015; khoản 2 điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; Điều 21 điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố: Bị cáo Dương Cảnh P phạm tội trộm cắp tài sản.

- Xử phạt: Bị cáo Dương Cảnh P 09 (chín) tháng tù; Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

2. Về trách nhiệm bồi thường dân sự: Không xem xét.

3. Về xử lý vật chứng vụ án: Không xem xét.

4. Về án phí: Buộc bị cáo Dương Cảnh P phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo bị hại có mặt được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

239
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 04/2019/HSST ngày 15/03/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:04/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuy An - Phú Yên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;