Bản án 03/2019/HNGĐ-ST ngày 01/02/2019 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TN, TỈNH TN

BẢN ÁN 03/2019/HNGĐ-ST NGÀY 01/02/2019 VỀ LY HÔN

Ngày 01/02/2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố TN xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình sơ thẩm thụ lý số: 927/2018/TLST-HNGĐ ngày 20 tháng 12 năm 2018 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 01/2019/QĐXX ngày 16/01/2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Lê Thị Th, sinh năm 1992

Địa chỉ: Xóm S, xã Tâ, thành phố TN, tỉnh X (Có mặt)

Bị đơn: Anh Đỗ Văn T, sinh năm 1987

Địa chỉ: Xóm S, xã Tâ, thành phố TN, tỉnh X

Hiện đang bị tạm giam tại Trại giam Công an tỉnh TN. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ly hôn, bản tự khai và các văn bản khác do Tòa án lập, chị Lê Thị Th trình bày: Tôi và anh Đỗ Văn T tự nguyện kết hôn, đăng ký kết hôn ngày 01 tháng 11 năm 2012 tại UBND xã Tâ, thành phố TN, tỉnh X. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống với nhau tình cảm hòa thuận được một thời gian ngắn, sau đó đã xảy ra mâu thuẫn không thể khắc phục được. Từ năm 2016 đến nay hai người đã ly thân. Nay tôi thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, cuộc sống chung không thể kéo dài tụi đề nghị Tòa án giải quyết cho ly hôn.

Về con chung: Chúng tôi có 01 con chung là Đỗ Văn Q, sinh ngày 06/7/2014, nay tôi có nguyện vọng được nuôi dưỡng con và không yêu cầu anh phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Không có Nợ chung: Không có Các khoản cho vay: Không có Ý kiến của bị đơn anh Đỗ Văn T trình bày:

Tôi và chị Lê Thị Th tự nguyện kết hôn, đăng ký kết hôn ngày 01 tháng 11 năm 2012 tại UBND xã Tâ, thành phố TN, tỉnh X. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống với nhau tình cảm hòa thuận được một thời gian ngắn, sau đó đã xảy ra mâu thuẫn chị tự bỏ nhà đi tôi phải đi đón về lần thứ tư nhưng chị vẫn không về và từ đó bố con tôi tự sống với nhau. Từ năm 2016 đến nay hai người đã ly thân. Nay tôi thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, cuộc sống chung không thể kéo dài chị đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn tôi đồng ý.

Về con chung: Có 01 con chung là Đỗ Văn Q, sinh ngày 06/7/2014, nay tôi có nguyện vọng được nuôi dưỡng con và không yêu cầu anh phải cấp dưỡng nuôi con chung vì chị bỏ con không hề thăm nom.

Về tài sản chung: Không có Nợ chung: Không có Các khoản cho vay: Không có Toà án đã mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cho các đương sự nhiều lần nhưng hai bên chỉ thỏa thuận được với nhau về ly hôn còn nuôi con chung không thống nhất được, vì vậy vụ kiện phải đưa ra xét xử công khai tại phiên toà hôm nay.

Tại phiên tòa nguyên đơn vẫn giữ nguyên quan điểm của mình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Chị Lê Thị Th yêu cầu giải quyết ly hôn anh Đỗ Văn T, nên xác định quan hệ pháp luật tranh chấp là “Tranh chấp ly hôn, nuôi con chung” tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự. Khi tranh chấp anh Đỗ Văn T là Bị đơn có nơi cư trú tại Xóm S, xã Tâ, thành phố TN, tỉnh X nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố TN theo quy định tại Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai vẫn vắng mặt vì lý do đang bị tạm giam tại Trại giam Công an tỉnh X. Căn cứ vào Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự HĐXX xét xử vắng mặt đối với bị đơn.

[2] Về nội dung tranh chấp: Hội đồng xét xử căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, lời khai của các bên đương sự thấy:

[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Thị Th và anh Đỗ Văn T tự nguyện kết hôn,đăng ký kết hôn ngày 01 tháng 11 năm 2012 tại UBND xã Tâ, thành phố TN, tỉnh X. Do vậy cuộc hôn nhân giữa Chị Lê Thị Th và anh Đỗ Văn T là hợp pháp.

Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống với nhau tình cảm hòa thuận được một thời gian ngắn, sau đó đã xảy ra mâu thuẫn không thể khắc phục được. Từ năm 2016 đến nay hai người đã ly thân. Nay tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, cuộc sống chung không thể kéo dài hai bên thuận tình ly hôn HĐXX thấy việc thuận tình ly hôn cả hai người là tự nguyện phù hợp với pháp luật không trái với đạo đức xã hội nên ghi nhận.

[4] Về con chung: Có 01 con chung là Đỗ Văn Q, sinh ngày 06/7/2014, nay hai bên đều có nguyện vọng được trực tiếp nuôi con và không ai có yêu cầu bên kia phải cấp dưỡng nuôi con.

Hội đồng xét xử xét thấy hai bên đều có nguyện vọng được nuôi con là chính đáng. Song đối với anh Đỗ Văn T đang bị tạm giam tại Trại giam Công an tỉnh X theo bản án số 454/2018/HSST ngày 19/11/2018 của Tòa án nhân dân thành phố TN đã xử phạt Đỗ Văn T 09 tháng tù về tội: “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Đỗ Văn T đã có đơn kháng cáo bản án, hồ sơ vụ án đã được chuyển đến Tòa án nhân dân tỉnh X theo quy định của pháp luật. Nếu giao con cho anh nuôi thì không phù hợp với điều kiện hiện tại cho nên tại thời điểm này giao con cho chị Th nuôi sẽ phù hợp hơn.

[7] Về án phí: Chị Lê Thị Th phải chịu án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các Điều 28, 35, 39, 146, 147, 227, 235, 271 của Bộ luật tố tụng dân sự; Các Điều 51, 55, 57, 59, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình; Luật án phí và lệ phí số: 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Lê Thị Th:

1.Về quan hệ hôn nhân: Ghi nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Lê Thị Th và anh Đỗ Văn T 2. Về con chung: Giao con Đỗ Văn Q, sinh ngày 06/7/2014 cho chị Lê Thị Th trực tiếp chăm sóc, giáo dục cho đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc đến khi có sự thay đổi khác. Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con đối với anh T cho đến khi chị Th có yêu cầu. Anh T được quyền đi lại thăm lom con chung mà không ai được quyền cản trở.

3. Về án phí: Chị Lê Thị Th phải nộp 300.000đ tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm được chuyển từ tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố TN ngày 20 tháng 12 năm 2018 biên lai số: 0007148

4. Quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm đương sự có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; đối với đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án kể từ ngày nhận được tống đạt bản án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

392
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 03/2019/HNGĐ-ST ngày 01/02/2019 về ly hôn

Số hiệu:03/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tây Ninh - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 01/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;