Bản án 02/2021/HNGĐ-ST ngày 19/01/2021 về xin ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TRÀ VINH, TỈNH TRÀ VINH

 BẢN ÁN 02/2021/HNGĐ-ST NGÀY 19/01/2021 VỀ XIN LY HÔN

 Trong ngày 19 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và Gia đình thụ lý số: 321/2020/TLST-HNGĐ, ngày 12 tháng 10 năm 2020, về việc “Xin ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 02/2021/QĐXXST-HNGĐ, ngày 07 tháng 01 năm 2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn A, sinh năm 1972 (vắng mặt) Địa chỉ: Số E, đường K, Khóm G, phường H, thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh. Vinh.

- Bị đơn: Bà Trần Yến B, sinh năm 1976 (vắng mặt) Địa chỉ: Số E, đường K, Khóm G, phường H, thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Nơi làm việc: Số F, đường L, phường M, thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh.

- Con chưa thành niên:

1/- Cháu Nguyễn Tiến C, sinh ngày 12/5/2005 (vắng mặt)

2/- Cháu Nguyễn Tiến D, sinh ngày 04/6/2013 (vắng mặt) Cùng địa chỉ: Số E, đường K, Khóm G, phường H, thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh.

Nguyên đơn ông Nguyễn Văn A có đơn xin xét xử vắng mặt nên vắng mặt tại phiên tòa, bị đơn bà Trần Yến B và con chưa thành niên Nguyễn Tiến D, Nguyễn Tiến C vắng mặt tại phiên tòa không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện đề ngày 10 tháng 5 năm 2020 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án của nguyên đơn ông Nguyễn Văn A thể hiện:

Ông A và bà Trần Yến B kết hôn với nhau có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường N, thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh vào năm 2004. Quá trình chung sống ông A và bà B có 02 người con chung là Nguyễn Tiến C, sinh ngày 12/5/2005 và Nguyễn Tiến D, sinh ngày 04/6/2013. Nguyên nhân ông A xin ly hôn vì giữa hai vợ chồng tánh tình không hợp với nhau dẫn đến thường xuyên cự cãi, cuộc sống chung của vợ chồng không thể tiếp tục duy trì được nữa. Nên ông A yêu cầu Tòa án giải quyết cho ông A được ly hôn với bà Trần Yến B. Về con chung 02 người là Nguyễn Tiến C, sinh ngày 12/5/2005 và Nguyễn Tiến D, sinh ngày 04/6/2013, ông A yêu cầu được tiếp tục nuôi Nguyễn Tiến C, sinh ngày 12/5/2005 và đồng ý giao cháu Nguyễn Tiến D, sinh ngày 04/6/2013 theo nguyện vọng của cháu D cho bà B nuôi dưỡng, ông A và bà B không phải cấp dưỡng nuôi con với nhau. Về tài sản chung, nợ chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Bị đơn bà Trần Yến B vắng mặt tại phiên tòa nên không có lời trình bày.

- Con chung chưa thành niên Nguyễn Tiến C vắng mặt tại phiên tòa nhưng có lời khai thể hiện: Con là con của cha Nguyễn Văn A và mẹ Trần Yến B. Sau khi cha mẹ con ly hôn thì con có nguyện vọng được tiếp tục sống chung với cha Nguyễn Văn A.

- Con chung chưa thành niên Nguyễn Tiến D vắng mặt tại phiên tòa nhưng có lời khai thể hiện: Con là con của cha Nguyễn Văn A và mẹ Trần Yến B. Sau khi cha mẹ con ly hôn thì con có nguyện vọng được tiếp tục sống chung với mẹ Trần Yến B.

Tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn ông Nguyễn Văn A có đơn xin xét xử vắng mặt nhưng vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện là yêu cầu Tòa án giải quyết cho ông A được ly hôn với bà Trần Yến B. Về con chung Nguyễn Tiến C, sinh ngày 12/5/2005 và Nguyễn Tiến D, sinh ngày 04/6/2013, ông A yêu cầu được tiếp tục nuôi Nguyễn Tiến C, sinh ngày 12/5/2005 và đồng ý giao cháu Nguyễn Tiến D, sinh ngày 04/6/2013 theo nguyện vọng của cháu D cho bà B nuôi dưỡng, ông A và bà B không phải cấp dưỡng nuôi con với nhau. Về tài sản chung, nợ chung ông A khai không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn bà Trần Yến B vắng mặt tại phiên tòa nên không có lời trình bày.

Các đương sự đều vắng mặt nên cũng không trực tiếp thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án và cũng không có đương sự nào cung cấp bổ sung tài liệu, chứng cứ gì để chứng minh cho yêu cầu của mình.

Quan điểm của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh, đối với việc tuân theo pháp luật tố tụng:

- Thẩm phán được phân công thụ lý giải quyết vụ án đã thực hiện đúng, đầy đủ quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về: thẩm quyền thụ lý, quan hệ pháp luật tranh chấp, xác định tư cách pháp lý và mối quan hệ những người tham gia tố tụng, thu thập chứng cứ, thời hạn xét xử, quyết định đưa vụ án ra xét xử, thời hạn gửi hồ sơ cho Viện kiểm sát nghiên cứu, cấp, tống đạt các văn bản tố tụng cho Viện kiểm sát và những người tham gia tố tụng.

- Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa hôm nay đã tuân thủ đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Đối với đương sự trong vụ án: Từ khi thụ lý đến thời điểm này, nguyên đơn đã chấp hành đúng theo quy định tại các Điều 70, 71 Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn không chấp hành đúng theo quy định tại các Điều 70, 72 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Đối với việc giải quyết vụ án: Qua nghiên cứu hồ sơ, các tài liệu, chứng cứ đã được Hội đồng xét xử xem xét và kết quả tranh luận của những người tham gia tố tụng tại phiên tòa, xét thấy yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có cơ sở để chấp nhận. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 28; 35; 39; 147; 227; 228 và 238 của Bộ luật tố tụng dân sự. Điều 51, 53, 56, 58 Luật Hôn nhân và gia đình. Áp dụng điểm a khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số:326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 “Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án”.

Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Văn A, cho ông A được ly hôn với bà Trần Yến B.

Về con chung: Giao con chung là Nguyễn Tiến C, sinh ngày 12/5/2005 cho ông A tiếp tục nuôi dưỡng và giao Nguyễn Tiến D, sinh ngày 04/6/2013 cho bà B nuôi dưỡng.

Về vấn đề cấp dưỡng nuôi con: Do ông A và bà B mỗi người nuôi 01 con chung nên ông A và bà B không phải cấp dưỡng nuôi con cho nhau.

Về tài sản chung, nợ chung: Ông A khai không có tài sản chung và không có nợ chung không yêu cầu giải quyết nên không đặt ra xem xét.

Về án phí: Buộc ông Nguyễn Văn A phải chịu án phí Hôn nhân sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật: Đây là vụ án Hôn nhân và gia đình về việc “Xin ly hôn”, căn cứ vào khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh.

[2] Về tố tụng: Nguyên đơn ông Nguyễn Văn A có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn bà Trần Yến B mặc dù đã được triệu tập hợp lệ đến tham gia phiên tòa sơ thẩm lần thứ hai nhưng bà B vẫn vắng mặt không có lý do nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự này theo quy định tại Điều 227 và Điều 238 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Về quan hệ hôn nhân: ông Nguyễn Văn A và bà Trần Yến B kết hôn có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường N, thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh vào năm 2004. Do trong cuộc sống vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn không thể hàn gắn tình cảm được nên ông A yêu cầu ly hôn với bà B.

Xét yêu cầu xin ly hôn của ông A, do giữa vợ chồng ông A đã có nhiều mâu thuẫn không thể hàn gắn, tình cảm vợ chồng không còn thương yêu nhau nên ông A yêu cầu ly hôn với bà B. Hội đồng xét xử nhận thấy cuộc sống vợ chồng ông A và bà B không có hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được, nên yêu cầu xin ly hôn của ông A là có căn cứ.

Tại phiên tòa hôm nay, bà Trần Yến B vắng mặt cũng đã thể hiện ý chí bà B không muốn hàn gắn để cùng về tiếp tục chung sống, xây dựng gia đình hạnh phúc, nuôi dạy các con chưa thành niên và cũng đã từ bỏ quyền tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bà B.

Do giữa vợ chồng ông A và bà B đã có Bều mâu thuẫn không thể hàn gắn được, đời sống chung không còn hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được, nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của ông A, cùng phù hợp với đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát.

[4] Về con chung: 02 người là Nguyễn Tiến C, sinh ngày 12/5/2005 và Nguyễn Tiến D, sinh ngày 04/6/2013. Qua lời khai của 02 người con chưa thành niên đã thể hiện Nguyễn Tiến C có nguyện vọng được tiếp tục sống chung với cha và Nguyễn Tiến D có nguyện vọng được sống chung với mẹ. Ông A yêu cầu được nuôi Nguyễn Tiến C và giao Nguyễn Tiến D cho bà B nuôi dưỡng.

Xét yêu cầu của ông A là phù hợp với nguyện vọng của các con chưa thành niên nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5] Về vấn đề cấp dưỡng nuôi con: Do ông A và bà B mỗi người nuôi 01 người con chưa thành niên nên ông A không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con và ông A cũng không đồng ý cấp dưỡng nuôi con cho bà B.

Hội đồng xét xử nhận thấy đề nghị của ông A là có căn cứ, không trái với đạo đức xã hội nên được chấp nhận.

[6] Về tài sản chung, nợ chung: Do ông Nguyễn Văn A khai không có nên Hội đồng xét xử không đặt ra để giải quyết.

[7] Về án phí sơ thẩm: Ông Nguyễn Văn A phải nộp án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; Điều 207; Điều 227; Điều 228 và Điều 238 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Căn cứ các Điều 51; 53; 56; 57; 58 của Luật hôn nhân và gia đình.

Căn cứ Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 “Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án”.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của ông Nguyễn Văn A.

- Về quan hệ hôn nhân: Ông Nguyễn Văn A được ly hôn với bà Trần Yến B.

- Về con chung: 02 người là Nguyễn Tiến C, sinh ngày 12/5/2005 và Nguyễn Tiến D, sinh ngày 04/6/2013. Giao con chung Nguyễn Tiến C, sinh ngày 12/5/2005 cho ông A tiếp tục nuôi dưỡng và giao Nguyễn Tiến D, sinh ngày 04/6/2013 cho bà B nuôi dưỡng.

- Về vấn đề cấp dưỡng nuôi con: Ông Nguyễn Văn A và bà Trần Yến B không phải cấp dưỡng nuôi con với nhau.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con chung không ai được quyền ngăn cản.

Người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

- Về tài sản chung, nợ chung: Ông Nguyễn Văn A khai không có nên Hội đồng xét xử không đặt ra để giải quyết.

* Về án phí Hôn nhân và Gia đình sơ thẩm: Buộc ông Nguyễn Văn A phải nộp 300.000 (ba trăm nghìn) đồng, nhưng được cấn trừ vào số tiền 300.000 (ba trăm nghìn) đồng tạm ứng án phí mà ông A đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: 0000945 ngày 01 tháng 10 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh, nên ông A không phải nộp tiếp.

Án xử sơ thẩm công khai báo đương sự vắng mặt biết được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã, phường nơi đương sự cư trú để xin Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

171
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 02/2021/HNGĐ-ST ngày 19/01/2021 về xin ly hôn

Số hiệu:02/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Trà Vinh - Trà Vinh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;