Bản án 02/2021/HNGĐ-ST ngày 14/01/2021 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KIM THÀNH, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 02/2021/HNGĐ-ST NGÀY 14/01/2021 VỀ LY HÔN

Ngày 14 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 251/2020/TLST-HNGĐ ngày 15 tháng 10 năm 2020 về việc: “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 49/2020/QĐXXST-HN&GĐ ngày 11/12/2020, quyết định hoãn phiên toà số 48/2020/QĐST-HN&GĐ ngày 28/12/2020 của Toà án nhân dân huyện Kim Thành giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Nguyễn Văn M – sinh năm 1998 Nơi ĐKHKTT, nơi cư trú: Thôn An B, xã Hiệp H, thị xã KM, tỉnh HD

2. Bị đơn: Chị Nguyễn Thị Ng – sinh năm 1993 Nơi ĐKHKTT: Thôn An B, xã Hiệp H, thị xã KM, tỉnh HD Nơi cư trú: Thôn Thắng Y, xã Thượng V, huyện KT, tỉnh HD.

(Anh M có đơn xin xét xử vắng mặt, chị Ng đã được triệu tập hợp lệ lần 2 nhưng vẫn vắng mặt).

* Người làm chứng:

- Ông Nguyễn Văn C – sinh năm 1962 Trú tại: Thôn Thắng Y, xã Thượng V, huyện KT, tỉnh HD - Bà Nguyễn Thị L – sinh năm 1978 Trú tại: Thôn An B, xã Hiệp H, thị xã KM, tỉnh HD Đều vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và các tài liệu có trong hồ sơ, nguyên đơn anh Nguyễn Văn M trình bày: Anh và chị Nguyễn Thị Ng kết hôn ngày 18/6/2019 tại UBND xã Hiệp H, thị xã KM trên cơ sở tự nguyện. Sau khi kết hôn anh chị chung sống với nhau cùng với bố mẹ đẻ anh tại xã Hiệp H, thị xã KM. Trong quá trình chung sống vợ chồng thường xuyên mâu thuẫn cãi nhau. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, không hợp nhau, vợ chồng không có con và không có sự quan tâm chăm sóc, tôn trọng lẫn nhau nên cuộc sống vợ chồng không có hạnh phúc, chị Ng không biết chăm lo cho gia đình nên vợ chồng thường xuyên to tiếng, xúc phạm nhau. Việc chị Ng không có con sau khi đi khám xác định do chị Ng sau đó chị Ng và gia đình chị Ng muốn vợ chồng đi nhận con để nuôi nhưng anh và gia đình anh không muốn như vậy nên vợ chồng thường hay căng thẳng với nhau. Đó cũng chỉ là một nguyên nhân dẫn đến vợ chồng mâu thuẫn, còn thực chất cuộc sống vợ chồng sau khi kết hôn về chung sống với nhau đã không tìm được tiếng nói chung, không thể hoà hợp được với nhau. Mặc dù mâu thuẫn của anh chị đã được hai bên gia đình khuyên bảo hòa giải nhiều lần, nhưng tình cảm vợ chồng vẫn không thể hàn gắn được, mâu thuẫn vợ chồng vẫn không được cải thiện. Chị Ng đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở xã Thượng V, huyện KT 2 lần do mâu thuẫn vợ chồng. Lần thứ nhất vào khoảng tháng 7 năm 2020, sau đó anh có khuyên bảo chị Ng quay về đoàn tụ nên chị Ng đã quay về chung sống cùng anh nhưng vợ chồng chung sống với nhau chỉ được khoảng 01 tháng thì lại phát sinh mâu thuẫn, cãi nhau. Sau đó chị Ng đã tiếp tục bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở thôn Thắng Y, xã Thượng V từ đầu tháng 9 năm 2020 cho tới nay, không quay về chung sống cùng anh nữa và anh chị cũng chính thức ly thân nhau từ đó cho tới nay, không ai còn quan tâm tới ai nữa, anh cũng không đến tìm chị Ng và chị Ng cũng không liên lạc gì với anh và gia đình anh. Trước khi chị Ng về mẹ chị Ng có gọi điện cho chị Ng bảo về và mang hết quần áo từ nhà anh về nhà bố mẹ chị Ng, còn quần áo mà mẹ anh mua cho chị Ng thì bỏ lại không đem về. Gia đình anh cũng đã đem trả cho bố mẹ chị Ng chiếc xe máy và số vàng mà bố mẹ chị Ng có trao cho vợ chồng anh ngày cưới. Bố mẹ chị Ng cũng bảo anh chở ảnh cưới của hai vợ chồng về lý do là không ở với nhau nữa thì trả lại ảnh. Nay anh xác định tình cảm vợ chồng không còn, không thể hàn gắn được, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng nên anh đề nghị Toà án giải quyết cho anh được ly hôn với chị Nguyễn Thị Ng.

Về con chung: Anh xác định vợ chồng không có con chung, anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung, nợ chung: Anh xác định vợ chồng không có tài sản chung và nợ chung, anh tự nguyện không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án nhiều lần triệu tập chị Ng và tống đạt các văn bản tố tụng cho chị Ng nhưng chị Ng đều không đến Tòa án làm việc. Tòa án cùng với đại diện UBND xã Thượng V xuống gia đình chị Ng để làm việc, nhưng chị Ng vắng mặt không có ở nhà. Xác minh tại UBND xã Hiệp H, thị xã KM xác định trong quá trình chung sống giữa anh M và chị Ng có phát sinh mâu thuẫn, hiện tại vợ chồng đã sống ly thân nhau, chị Ng đã về nhà bố mẹ đẻ ở xã Thượng V, huyện KT sinh sống.

Ông Nguyễn Văn C là bố đẻ của chị Ng xác định: Sau khi kết hôn anh M và chị Ng chung sống cùng gia đình anh M, trong quá trình chung sống có phát sinh mâu thuẫn là do hai bên không hợp nhau, bất đồng quan điểm sống, vợ chồng không có con cũng là trở ngại lớn trong việc hàn gắn hạnh phúc gia đình. Do mâu thuẫn xảy ra nên chị Ng đã bỏ về nhà ông sinh sống kể từ tháng 9 năm 2020 cho đến nay. Anh M cũng không đến tìm chị Ng để nói chuyện hàn gắn tình cảm nên hai bên vẫn ly thân nhau. Chị Ng hiện vẫn đang sinh sống tại gia đình ông và đã nhận được các văn bản tố tụng của Toà án. Nhưng chị Ng nói vì theo đạo nên không đồng ý ly hôn nhưng chị sẽ không đến Toà án để làm việc.

Toà án tiến hành làm việc với bà Nguyễn Thị L là mẹ đẻ anh M xác định: Trong quá trình chung sống anh M và chị Ng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, cãi nhau. Nguyên nhân do chị Ng không quán xuyến làm việc nhà, vợ chồng không có con nên thường xuyên cãi nhau. Chị Ng đã 2 lần bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở Thắng Y – Thượng V sinh sống, lần thứ nhất vào tháng 7 năm 2020 sau đó vợ chồng có quay lại chung sống với nhau khoảng 01 tháng thì lại phát sinh mâu thuẫn. Đến đầu tháng 9 năm 2020 chị Ng lại tiếp tục bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở xã Thượng V, huyện KT sinh sống cho tới nay, không quay về chung sống cùng anh M nữa. Trước khi chị Ng bỏ về thì gia đình chị Ng bảo mang hết quần áo về, gia đình bà cũng đã mang trả hết những đồ vật ngày cưới gia đình chị Ng tặng cho hai vợ chồng. Gia đình chị Ng nói ở với anh M không có tương lai. Từ thời gian chị Ng bỏ về nhà bố mẹ đẻ cho đến nay anh M và chị Ng cũng như gia đình hai bên không còn liên lạc gì với nhau nữa.

Tòa án đã ra quyết định đưa vụ án ra xét xử và triệu tập chị Ng đến tham gia phiên tòa nhưng chị Ng vắng mặt. Tòa án quyết định hoãn phiên tòa và triệu tập chị Ng đến phiên tòa, nhưng tại phiên tòa hôm nay chị Ng vẫn vắng mặt. Trong quá trình đưa vụ án ra xét xử anh M có đơn đề nghị Toà án xét xử vắng mặt. Anh vẫn giữ nguyên quan điểm và yêu cầu khởi kiện. Chị Ng đã được Toà án triệu tập hợp lệ lần 2 nhưng vẫn vắng mặt. Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa công bố tóm tắt nội dung vụ án và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.

Đại diện viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương phát biểu quan điểm:

- Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên toà, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa thực hiện đúng thủ tục tố tụng; nguyên đơn chấp hành đúng pháp luật về tố tụng dân sự; bị đơn chưa chấp hành đúng pháp luật về tố tụng dân sự.

- Về việc giải quyết vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng: Điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 39 Bộ luật Dân sự. Các Điều 51, 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Luật Phí và Lệ phí; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Về hôn nhân: Xử cho anh Nguyễn Văn M được ly hôn chị Nguyễn Thị Ng. Về tài sản chung, nợ chung: Đương sự đều không yêu cầu giải quyết nên không xem xét, giải quyết. Về án phí: Anh Nguyễn Văn M phải chịu án phí dân sự sơ thẩm ly hôn là 300.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Anh M vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, chị Ng đã được Toà án triệu tập hợp lệ lần 2 nhưng vẫn vắng mặt. Căn cứ Điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án xét xử vắng mặt anh M và chị Ng.

[2] Về hôn nhân: Anh Nguyễn Văn M và chị Nguyễn Thị Ng kết hôn năm 2019, việc kết hôn tuân thủ các điều kiện kết hôn theo luật định, được xác nhận là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn anh chị chung sống với nhau một thời gian ngắn thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do vợ chồng không hợp nhau, bất đồng quan điểm trong cuộc sống, vợ chồng không có sự tin tưởng yêu thương nhau và không có con chung nên thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, xúc phạm nhau. Anh chị đã sống ly thân nhau từ tháng 9 năm 2020 đến nay nhưng chị Ng cũng không có biện pháp gì để cải thiện quan hệ hôn nhân với anh M. Trong quá trình Toà án thụ lý giải quyết vụ án, chị Ng không có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án để Tòa án hòa giải; thể hiện việc chị Ng bỏ mặc cho quan hệ hôn nhân đổ vỡ. Anh M vẫn kiên quyết đề nghị xin ly hôn với chị Ng. Như vậy, quan hệ hôn nhân giữa anh M và chị Ng đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy, Toà án chấp nhận yêu cầu của anh Nguyễn Văn M xin được ly hôn chị Nguyễn Thị Ng là phù hợp với Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3] Về con chung: Anh Nguyễn Văn M và chị Nguyễn Thị Ng không có con chung, đương sự không yêu cầu nên không đặt ra việc xem xét giải quyết.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Anh M xác định vợ chồng không có tài sản chung, nợ chung và tự nguyện không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Toà án không xét.

[5] Về án phí: Căn cứ Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Anh M có đơn yêu cầu ly hôn nên phải chịu án phí dân sự sơ thẩm ly hôn.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 238, Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

1. Về hôn nhân: Cho anh Nguyễn Văn M được ly hôn chị Nguyễn Thị Ng.

2. Án phí: Anh Nguyễn Văn M phải chịu án phí dân sự sơ thẩm ly hôn là 300.000 đồng, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai số: AA/2018/0001586 ngày 14/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương. Anh Nguyễn Văn M đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm ly hôn.

Các đương sự được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

268
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 02/2021/HNGĐ-ST ngày 14/01/2021 về ly hôn

Số hiệu:02/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kim Thành - Hải Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;