Bản án về tội trộm cắp tài sản số 20/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BĐ, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 20/2023/HS-ST NGÀY 06/04/2013 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 06 tháng 4 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện BĐ, tỉnh Bình Phước xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 15/2023/HSST ngày 07 tháng 3 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 16/2023/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 3 năm 2023 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trần Thị Kim D (tên gọi khác: L, L héo), sinh năm 1971 tại L; HKTT: Ấp 3, xã HP, huyện BĐ, tỉnh Bình Phước; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc; Kinh; Giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ học vấn: 3/12; con ông Trần Văn N (đã chết) và bà Trần Thị Tám N (đã chết); Bị cáo có chồng tên Nguyễn Văn D (đã chết) và 03 người con, lớn nhất sinh năm 1999, nhỏ nhất sinh năm 2006; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 23/01/2007, bị Công an huyện BĐ xử phạt 750.000 đồng về hành vi kinh doanh hàng nhập lậu là thuốc lá điếu (đã xóa tiền sự); Ngày 24/6/2010 bị TAND huyện BĐ xử phạt 5.000.000 đồng về tội “Đánh bạc” (đã xóa án tích); Bị cáo được tại ngoại - Có mặt tại phiên tòa.

Bị hại: Nông Trường 5 - Công ty cao su L Địa chỉ: Ấp 3, xã HP, huyện BĐ, tỉnh Bình Phước

Đại diện theo pháp luật: Ông Lưu Văn D; chức vụ: Giám đốc Công ty Địa chỉ: Thôn 6, xã TH, huyện BĐ, tỉnh Bình Phước

Đại diện theo ủy quyền của ông D: Ông Trần Hồ Anh T, sinh năm 1986 – Có mặt

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Ông Hồ Minh T, sinh năm 1993 – Có mặt Địa chỉ: Ấp 3, xã HP, huyện BĐ, tỉnh Bình Phước

2.3. Những người làm chứng:

- Ông Đoàn Văn C, sinh năm 1962 – Có mặt

Địa chỉ: Ấp TT, xã PT, huyện BĐ, tỉnh Bình Phước

- Cháu Nguyễn Thị D1, sinh năm 2006 – Có mặt

Người giám hộ cho Cháu D1: Bà Võ Thị Quế N, sinh năm 1997 – Có mặt

Đoàn thanh niên xã HP, huyện BĐ, tỉnh Bình Phước.

- Bà Phạm Thị M, sinh năm 1963 – Có mặt

Cùng địa chỉ: Ấp 3, xã HP, huyện BĐ, tỉnh Bình Phước

- Ông Hoàng Anh T, sinh năm 1986 – Có mặt

Địa chỉ: Thôn 5, xã TH, huyện BĐ, tỉnh Bình Phước

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội D vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 17 giờ 30 phút ngày 19/11/2022, tại lô cao su tổ 8, công ty cao su L thuộc ấp 3, xã HP, huyện BĐ; Hồ Minh T,là bảo vệ tổ 8, thuộc Nông trường V- Công ty cao su L đang làm nhiệm vụ bảo vệ trên lô thì phát hiện Trần Thị Kim D, và con gái là Nguyễn Thị D1, (con của D); đang trộm mủ cao su. T đến nhắc nhở, yêu cầu D, D1 bỏ lại số mủ vừa lấy được và ra khỏi lô cao su. D, D1 không chấp hành và chửi T. Lúc này, T gọi điện cho ông Đoàn Văn C, cùng là bảo vệ tổ 8, nông trường V công ty cao su L đang trực tại lô cao su gần đó để hỗ trợ. Khi ông C đến thì D, D1 mới ra khỏi lô cao su và tiếp tục chửi lực lượng bảo vệ. Ngay sau đó, ông Ca đến lấy số mủ trên tay D1 thì bị D, D1 ngăn cản. Lúc đó, ông Ca nắm cổ áo của D1 thì D ngăn cản, T lấy 01 chén đựng mủ cao su trên cây gần đó đánh D gây thương tích. Thấy vậy, D1 cầm 01 chén đựng mủ cao su đánh lại T gây thương tích. Sau đó được mọi người đến can ngăn, đưa T, D đến trung tâm y tế huyện BĐ cấp cứu, điều trị. Công an xã HP đã lập hồ sơ, thu giữ vật chứng là 19,4kg mủ cao su và chuyển Cơ quan điều tra công an huyện BĐ điều tra làm rõ.

Kết luận định giá tài sản số 363/KL-HDĐGTS ngày 13/12/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện BĐ, kết luận: giá trị tài sản của 19,4kg mủ cao su (loại mủ nước và mủ đông trộn lẫn vào nhau) vào thời điểm ngày 19/11/2022 là 194.000đ (một trăm chín mươi bốn nghìn đồng)

Tại phiên tòa:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện BĐ giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như trong nội D bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Trần Thị Kim D phạm tội “Trộm cắp tài sản”, căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo từ 9-12 tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 18-24 tháng.

- Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình, không có ý kiến tranh luận đối với bản luận tội của kiểm sát viên và xin được hưởng mức án nhẹ nhất.

- Đại diện bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến tranh luận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội D vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra công an huyện BĐ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện BĐ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội D: Vì muốn có tiền tiêu xài, khoảng 17 giờ 30 phút ngày 19/11/2022, bị cáo Trần Thị Kim D đã có hành vi lén lút chiếm đoạt 19,4kg mủ cao su (loại mủ nước và mủ đông trộn lẫn vào nhau) trị giá 194.000 đồng của Nông trường V – Công ty cao su L. Tuy giá trị tài sản bị chiếm đoạt dưới 2.000.000 đồng nhưng trước đó vào ngày 25/10/2022 bị cáo đã bị Công an huyện BĐ xử phạt hành chính về hành vi trộm cắp tài sản, chưa được xóa tiền sự nên hành vi nêu trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự. Do đó Cáo trạng số 16/CT-VKS ngày 16 tháng 3 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện BĐ và bản luận tội của Kiểm sát viên truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng quy định pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, ảnh hưởng đến trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản người khác là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện tội phạm. Xét tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, cần xử phạt bị cáo mức án nghiêm, tương ứng với hành vi phạm tội của bị cáo nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: không có.

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn (tài sản bị chiếm đoạt có giá trị 194.000 đồng); phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; tài sản bị chiếm đoạt đã thu hồi trả cho bị hại. Đây là các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự được áp dụng đối với bị cáo.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Những người tham gia tố tụng không có yêu cầu gì nên không đặt ra xem xét [7] Về vật chứng:

- 01 thẻ nhớ màu xanh trắng, loại 8GB bên trong có chứa 01 file video thời lượng 01 phút 06 giây, ghi lại hình ảnh anh Hồ Minh T đánh Trần Thị Kim D, Nguyễn Thị D1 đánh Hồ Minh T lưu theo hồ sơ vụ án;

- 19,4kg mủ cao su (loại mủ nước và mủ đông trộn lẫn vào nhau) đã được giao trả lại cho Nông trường 5 - Công ty cao su L là có cơ sở.

[8] Những vấn đề khác - Đối với Nguyễn Thị D1 (sinh ngày 27/12/2006) tính đến ngày 19/11/2022 mới 15 tuổi 10 tháng 22 ngày, chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 2 Điều 12 Bộ luật hình sự nên không đề cập xử lý là có cơ sở.

- Đối với Hồ Minh T đánh bị cáo D gây thương tích, ngày 11/1/2023 bị cáo D có đơn xin không đi giám định và yêu cầu không khởi tố vụ án hình sự; ngày 10/2/2023 Công an huyện BĐ đã ra quyết định số 242/QĐ-XPHC xử phạt vi phạm hành chính về hành vi cố ý gây thương tích đối với Hồ Minh T nên không đề cập xử lý.

- Đối với Nguyễn Thị D1, đánh Hồ Minh T gây thương tích, ngày 06/2/2023 Hồ Minh T có đơn xin không đi giám định và yêu cầu không khởi tố vụ án hình sự; ngày 10/2/2023 Công an huyện BĐ đã ra quyết định số 243/QĐ- XPHC xử phạt vi phạm hành chính về hành vi cố ý gây thương tích đối với Nguyễn Thị D1 nên không đề cập xử lý.

Xét bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, không có tiền án, tiền sự, tài sản bị chiếm đoạt có giá trị không lớn nên việc cho bị cáo hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội, cũng đủ đảm bảo giáo dục, răn đe bị cáo, đề nghị của Kiểm sát viên về hình phạt là phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

[1]. Tuyên bố bị cáo Trần Thị Kim D phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự Xử phạt bị cáo Trần Thị Kim D 12 (mười hai) tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 24 (hai mươi bốn) tháng, kể từ ngày tuyên án.

Giao bị cáo cho UBND xã HP, huyện BĐ, tỉnh Bình Phước giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 92 Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

[2]. Vật chứng: Áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 01 thẻ nhớ màu xanh trắng, loại 8GB bên trong có chứa 01 file video thời lượng 01 phút 06 giây, ghi lại hình ảnh anh Hồ Minh T đánh Trần Thị Kim D, Nguyễn Thị D1 đánh Hồ Minh T lưu theo hồ sơ vụ án;

[3. Án phí: Áp dụng Điều 135 của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội Bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[4]. Về quyền kháng cáo:

Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

416
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 20/2023/HS-ST

Số hiệu:20/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bù Đăng - Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/04/2013
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;