Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 75/2024/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 75/2024/HS-PT NGÀY 01/03/2024 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 01 tháng 3 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, xét xử phúc thẩm trực tiếp vụ án hình sự thụ lý số 02/2024/TLPT-HS ngày 02 tháng 01 năm 2024 đối với bị cáo Đồng Tiến C về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 105/2023/HS- ST ngày 23/11/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 222/2024/QĐXXPT-HS ngày 19 tháng 02 năm 2024.

Bị cáo có kháng cáo:

ĐỒNG TIẾN C, sinh ngày 06/01/1997 tại Nam Định; nơi cư trú: xã T, huyện T1, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; con ông Đồng Văn C1 (sinh năm 1969) và bà Phạm Thị S (sinh năm 1973), có vợ Vũ Thị H và 01 con, sinh năm 2017; tiền án, tiền sự: không; bị bắt tạm giữ từ 24/8/2022, tạm giam từ ngày 02/9/2022 cho đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam công an thành phố Đà Nẵng (có mặt).

Người bào chữa cho bị cáo: ông Hồ Văn H1, Luật sư Công ty luật TNHH MTV W, thuộc Đoàn luật sư thành phố Đà Nẵng (vắng mặt; có đơn xin xét xử vắng mặt và bản luận cứ bào chữa).

- Bị hại: ông Lê Quang H1, sinh năm 1988; trú tại: K67/H22/08 đường T1, phường M, quận S, thành phố Đà Nẵng (vắng mặt).

Ngoài ra, trong vụ án còn có bị cáo Võ Văn N1, sinh năm 1994; Lương Thị Thu H2, sinh năm 1990 và 08 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có kháng cáo, không bị kháng nghị.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vũ Văn N1 và Đồng Tiến C quen biết với nhau vào năm 2020 khi cùng làm nghề lái xe tuyến đường Hà Nội - Nam Định. Đầu tháng 6/2022, C gặp lại N1 và biết N1 hiện tại chưa có việc làm, cần tiền để sinh hoạt cá nhân, nên C bàn với N1 đứng ra thuê xe ở Đà Nẵng rồi đem về Hà Nội tiêu thụ, sau đó báo cho chủ xe ra thu xe về thì N1 đồng ý. C yêu cầu N1 chụp căn cước công dân, bằng lái xe hạng C gửi qua zalo để C liên hệ với người cho thuê xe.

Để thực hiện hành vi phạm tội, C lên các trang mạng có đăng thông tin cho thuê xe ô tô tự lái tại Đà Nẵng, dùng thông tin người thuê xe là Vũ Văn N1 để liên hệ qua zalo với anh Lê Quang H1 để thuê xe ô tô thời gian từ ngày 10/6/2022 đến ngày 13/6/2022 với giá 900.000 đồng/01 ngày, sau đó C nhờ Đàm Ngọc T2 sử dụng số tài khoản 5557X02222 mở tại Ngân hàng VP Bank chuyển khoản số tiền 500.000 đồng để đặt cọc.

Ngày 09/6/2022, C chuyển vào tài khoản ngân hàng VietcomBank số 097100000X của Vũ Văn N1 10.000.000 đồng để N1 tự đặt vé máy bay vào Đà Nẵng, mua điện thoại và sim để liên lạc với chủ xe khi đến Đà Nẵng.

Thông qua mạng xã hội, C đặt mua một bộ biển kiểm soát xe ô tô giả có số 51H-X với giá 900.000 đồng, đặt mua một bộ dụng cụ phá sóng định vị gắn trên xe ô tô giá 5.000.000 đồng, bỏ bộ biển số xe giả, bộ phá sóng định vị vào túi xách đưa cho H2 và hẹn đón H2 tại Ngã tư Sở, đồng thời C tự đặt vé máy bay đi cùng chuyến với N1.

Tối ngày 09/6/2022, C điều khiển xe ô tô ra đón N1 đi ra sân bay Nội Bài để vào Đà Nẵng và cả hai cùng đến đón H2 để H2 lái xe về khi C, N1 lên máy bay. H2 lên xe, cầm theo túi xách của C bên trong có sẵn biển số xe giả và bộ phá sóng định vị xe ô tô theo lời C dặn trước đó, khi lên xe H2 có mở túi xách và kiểm tra lại, bỏ quần áo của C vào túi xách và giao cho C. Khi đến chân cầu Nhật Tân, C gặp một người (không xác định lai lịch) nhận thêm một bộ phá sóng định vị xe ô tô mà C đã đặt trước đó, C đưa bộ phá sóng định vị xe ô tô này H2 bỏ vào túi áo quần của C. Đến sân bay, C và N1 vào sảnh, còn H2 điều khiển xe về.

Sau khi đến Đà Nẵng, C đưa thêm cho N1 10.000.000 đồng để lo chi phí thuê xe, còn C về khách sạn nghỉ. N1 sử dụng điện thoại và sim mới mua để liên lạc với anh H1 hẹn địa điểm bàn giao xe. Khoảng 0 giờ 50 phút ngày 10/6/2022, N1 đến tại địa chỉ số 67 T1, thành phố Đà Nẵng gặp anh H1 để làm hợp đồng thuê xe ô tô nhãn hiệu Mazda3 màu trắng, biển kiểm soát 43E-X và nói với anh H1 mục đích của việc thuê xe là chở bạn gái đi du lịch. Sau khi thuê xe, N1 đến gặp C và tìm nhà nghỉ khác để ngủ. Khoảng 9 giờ ngày 10/6/2022, C và N1 gặp nhau đi vòng quanh Đà Nẵng, đến khoảng 01 giờ ngày 11/6/2022, khi đến địa bàn đường 14B, xã Hòa Liên, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng, C dừng lại, phá định vị của xe ô tô và thay biển số 51H-X vào xe Mazda3 biển kiểm soát 43E-X, sau đó cả hai lái xe ra thành phố Nam Định. Tối ngày 12/6/2022, C và N1 điều khiển xe ô tô nói trên về Hà Nội. Trên đường đi, C nói với N1 là xe ô tô này sẽ bán được khoảng 160.000.000 đồng và thống nhất sẽ chia cho N1 số tiền là 80.000.000 đồng.

Rạng sáng ngày 13/6/2022, khi C và N1 điều khiển xe ô tô vừa chiếm đoạt được của anh H1 đến ngõ 125 đường N2, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội để ăn uống. Lúc này, Lương Thị Thu H2 đã chờ sẵn, khi N1 vừa mở cửa xe đi ra thì H2 chạy đến giật chìa khóa xe trên tay N1 và lên xe ô tô. N1 có nói với H2: “Xe này là xe anh thuê đấy, không phải xe của thằng C”. H2 nói với N1: “Tiền của tao đưa cho thằng C đi mua xe thì tao lấy” rồi H2 lấy xe ô tô bỏ đi. Sau khi lấy xe ô tô nêu trên, H2 lên mạng xã hội đặt mua bộ biển số giả 30G-X để thay vào xe ô tô, vứt bộ biển số giả 51H-X tại khu vực cầu CD, đồng thời thu gom quần áo của C, N1 và bộ biển số 43E- X vào một túi lớn và vứt tại thùng rác trước Trung tâm thương mại AEON Long Biên, Hà Nội. H2 điều khiển xe ô tô trên đến gặp anh Hoàng Vinh D1 (sinh năm 1986, trú tại: Mê Linh, Hà Nội) nhờ cất giữ hộ. Ngày 22/8/2022, Vũ Văn N1 đến Công an thành phố Đà Nẵng đầu thú.

Tang, tài vật tạm giữ và xử lý: Ngày 30/8/2022, anh Hoàng Vinh D1 đã giao nộp 01 (một) xe ô tô hiệu Mazda 3, màu trắng, số khung: RN2BN4AA6KM014208; số máy: P520592979 mà anh D1 nhận giữ hộ của H2.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 169 ngày 28/10/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thành phố Đà Nẵng, kết luận: xe ô tô biển kiểm soát 43E-X trị giá 558.954.000đồng.

Về trách nhiệm dân sự: anh Lê Quang H1 yêu cầu bồi thường số tiền 150.000.000 đồng bị thiệt hại gồm: 75.000.000 đồng tiền thu nhập bị mất do không có xe để kinh doanh từ tháng 6/2022 đến 9/2022; 75.000.000 đồng chi phí sửa chữa xe.

Ngày 09/12/2022, chị Trần Thị Thùy D1 (là vợ của Vũ Văn N1) đã tự nguyện khắc phục hậu quả cho bị hại số tiền 50.000.000đồng.

Ngày 04/01/2023, ông Đồng Văn C (cha của Đồng Tiến C) đã tự nguyện khắc phục hậu quả cho bị hại số tiền 40.000.000đồng.

Ngày 12/12/2022, bà Nguyễn Thị H (mẹ của Lương Thị Thu H2) đã tự nguyện khắc phục hậu quả số tiền 15.000.000đồng.

Anh Lê Quang H1 đã nhận số tiền 105.000.000 đồng và yêu cầu khắc phục thêm số tiền 40.000.000 đồng. Lương Thị Thu H2 có nguyện vọng sử dụng số tiền 35.000.000 đồng từ số tiền của H2 đang được Cơ quan điều tra tạm giữ để khắc phục hậu quả cho bị hại.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 105/2023/HS-ST ngày 23/11/2023, Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng đã quyết định:

Tuyên bố: Bị cáo Đồng Tiến C phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 174; điểm a khoản 1 Điều 52; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự. Xử phạt: Đồng Tiến C 11 năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt 24/8/2022.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về phần hình phạt đối với các bị cáo Võ Văn N1, sinh năm 1994; Lương Thị Thu H2, sinh năm 1990, trách nhiệm dân sự, phần xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Ngày 02/12/2023, bị cáo Đồng Tiến C làm đơn kháng cáo với nội dung: xin giảm nhẹ hình phạt vì án sơ thẩm xử nặng.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo giữ nguyên kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Luật sư bào chữa cho bị cáo vắng mặt tại phiên tòa và gửi bản luận cứ bào chữa cho bị cáo với nội dung xin Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo và giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến: đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo và giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm về phần hình phạt đối với bị cáo Đồng Tiến C.

Căn cứ vào hồ sơ vụ án, các chứng cứ tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa, lời khai của bị cáo và kết quả tranh tụng tại phiên tòa.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, lời khai nhận của bị cáo và kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử xét thấy:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Đà Nẵng quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về tội danh: do cần tiền tiêu xài cá nhân, Đồng Tiến C đã bàn bạc, rủ rê Vũ Văn N1 vào Đà Nẵng thuê xe ô tô rồi đem về Hà Nội bán lấy tiền. Khoảng 00 giờ 50 phút ngày 10/6/2023, tại 67 T1, thành phố Đà Nẵng, Đồng Tiến C và Vũ Văn N1 đã thuê xe ô tô hiệu Mazda3 màu trắng, biển kiểm soát 43E-X của anh Lê Quang H1, sau đó phá sóng định vị xe, thay biển số giả mang biển kiểm soát: 51H-X rồi đưa xe ô tô về Hà Nội để bán với số tiền 160.000.000 đồng. Sau khi bán được xe, N1 và C đã thống nhất chia đôi mỗi người 80.000.000 đồng. Tại Bản kết luận định giá tài sản số 169 ngày 28/10/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Đà Nẵng, kết luận: xe ô tô biển kiểm soát 43E- X của anh Lê Quang H1 trị giá 558.954.000 đồng.

Với hành vi và thủ đoạn nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử Đồng Tiến C phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3]. Xét tính chất hành vi và kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của Đồng Tiến C, thì thấy:

Về tính chất hành vi: bị cáo Đồng Tiến C bị xét xử về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 của Bộ luật hình sự, có khung hình phạt từ 12 đến 20 năm tù hoặc tù chung thân, là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

Về hình phạt: tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo C thừa nhận toàn bộ hành vi của mình và xin giảm nhẹ hình phạt vì lý do: hình phạt đối với bị cáo là nặng, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như: chưa có tiền án, tiền sự; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đã khắc phục hậu quả và người bị hại có đơn giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo; gia đình bị cáo có công với Cách mạng. Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm xét thấy, bị cáo phạm vào tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, có 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Phạm tội có tổ chức” quy định tại điểm a khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 11 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” (dưới mức khởi điểm của khung hình phạt) là đã xem xét bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ và áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo và không nặng. Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, bị cáo cũng không trình bày được tình tiết giảm nhẹ nào mới. Vì vậy, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm về phần hình phạt đối với bị cáo.

[4]. Về án phí hình sự phúc thẩm: do kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt không được chấp nhận nên bị cáo Đồng Tiến C phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[5]. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo và giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm, đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

[6]. Các quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì những lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 của Điều 355; Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Đồng Tiến C, giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 105/2023/HS-ST ngày 23/11/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng về phần hình phạt đối với bị cáo Đồng Tiến C.

1. Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 174; điểm a khoản 1 Điều 52; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Đồng Tiến C 11 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 24/8/2022.

2. Về án phí hình sự phúc thẩm: bị cáo Đồng Tiến C phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

74
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 75/2024/HS-PT

Số hiệu:75/2024/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;