Bản án về tội giết người số 04/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 04/2024/HS-ST NGÀY 24/01/2024 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 24 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 71/2023/TLST-HS ngày 27 tháng 11 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 03/2024/QĐXXST- HS ngày 05 tháng 01 năm 2024, đối với bị cáo:

Nguyễn Đức S (Tên gọi khác: Nhí B), giới tính: nam; sinh ngày 22 tháng 8 năm 2000; Nơi sinh: tỉnh Bình Thuận;

Nơi đăng ký thường trú và chỗ ở: thôn P, xã H, huyện H, tỉnh Bình Thuận; Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ học vấn: 7/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam;Tiền án, tiền sự: Không; Con ông Nguyễn Ngọc N và bà Đặng Thị H; Gia đình có 06 anh em, Nguyễn Đức S là con út. Sống chung như vợ chồng với bà Trương Thị Hoàng T- sinh năm 2000, HKTT: thị trấn T, huyện H, tỉnh Bình Thuận; có 01 người con sinh năm 2022.

Bị cáo Nguyễn Đức S bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/8/2023, tại Trại tạm giam – Công an tỉnh B. Bị cáo có mặt tại phiên tòa

- Người bào chữa chỉ định cho bị cáo: Luật sư Lê Văn B, văn phòng L2, Đoàn luật sư tỉnh B; Địa chỉ: A L, phường H, thành phố P, tỉnh Bình Thuận. (có mặt)

- Bị hại: Ông Nguyễn Tấn Q-sinh năm 1995 (đã chết) Địa chỉ : thôn P, xã H, huyện H, tỉnh Bình Thuận.

- Người đại diện hợp pháp của bị hại: Bà Mai Thị L, sinh năm 1977 và ông Nguyễn Văn C, sinh năm 1970; Cùng địa chỉ: thôn P, xã H, huyện H, tỉnh Bình Thuận (là cha, mẹ của bị hại Nguyễn Tấn Q).(có mặt) Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bà Mai Thị L: bà Phạm Thị Minh H1, Luật sư thuộc Văn phòng L3, Đoàn Luật sư tỉnh B.

- Người làm chứng: ông Nguyễn Bảo A, sinh năm 2000. Địa chỉ: Thôn M, xã H, huyện H, tỉnh Bình Thuận. (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ 00 ngày 20/8/2023, Trần Minh H2 - sinh năm 2000, trú tại thôn M, xã H, huyện H, tỉnh Bình Thuận tổ chức sinh nhật tại quán A1, thuộc thôn P, xã H, cùng huyện H. Đến dự sinh nhật, gồm có: bị hại Nguyễn Tấn Q, bị cáo Nguyễn Đức S cùng vợ chưa đăng ký kết hôn là bà Trương Thị Hoàng T- sinh năm 2000, Nguyễn Thị Như Q1- sinh năm 1997, nơi cư trú phường L, thành phố P và khoảng 10 người khác. Đến khoảng 23 giờ 00 cùng ngày, kết thúc tiệc sinh nhật do Trương Thị Hoàng T uống nhiều bia nên bị say, Nguyễn Đức S bế T lên xe ô tô biển số 86A-119.xx loại 7 chỗ ngồi của Nguyễn Tấn Q và nói: “Quỳnh chở vợ em về giùm” nhưng Nguyễn Tấn Q không đồng ý dẫn đến giữa S và Q to tiếng với nhau, nhưng được mọi người khuyên can thì bị cáo S bế bà T ra khỏi xe ô tô đặt lên xe mô tô biển số 86B2-595.xx của mình để chở về. Sợ T ngồi trên xe mô tô không an toàn nên bà Nguyễn Thị Như Q1 ngồi phía sau bà T để bị cáo S điều khiển đưa về nhà, sau đó chở Q1 quay lại quán A1 để lấy xe về. Thời gian này, ông Nguyễn Tấn Q cũng điều khiển xe ô tô đi khỏi quán A M và mọi người dự tiệc sinh nhật đã về, S cũng điều khiển xe mô tô về nhà. Khoảng 30 phút sau, qua điện thoại di động Nguyễn Tấn Q biết Trần Minh H2 đã về nhà tiếp tục uống bia với một số người bạn và có rủ Nguyễn Tấn Q đến. Trên đường đi đến nhà Trần Minh H2, Nguyễn Tấn Q điều khiển xe ô tô ghé phòng trọ của Nguyễn Tiến T1- sinh năm 2005, trú tại thôn P, xã H, huyện H để rủ đi cùng Trong lúc uống bia tại nhà Trần Minh H2, Nguyễn Tấn Q nhận được điện thoại di động do Nguyễn Đức S gọi đến. Qua điện thoại, S và Q thách đố đánh nhau, địa điểm là chỗ Nhà máy xay lúa, gần Trạm thu phí S2 - Quốc lộ A, thuộc thôn M, xã H, huyện H. Ngay sau khi thách đố, hẹn đánh nhau với Nguyễn Đức S, Nguyễn Tấn Q gọi điện thoại di động gặp Trần Văn L1- sinh năm 1996 là anh ruột của Trần Minh H2 đang chơi Bida ở gần đó nói: “Mày đưa Nhí B1 ra đây gặp tao”, L1 trả lời: “Không có Nhí B1 ở đây”, thì Q nói tiếp: “Tao đang ở nhà mày nè”, nghe vậy L1 về nhà. Thấy Q ngồi trước nhà, L1 điện thoại di động gặp S hỏi: “Em và Q có mâu thuẫn gì hả?”, S trả lời: “Nó tìm em hả”, nói xong S cúp điện thoại rồi S gọi điện thoại cho Q tiếp tục thách đố đánh nhau tại địa điểm trên. Sợ S và Q đánh nhau, L1 và H2 can ngăn Q nhưng không được, do vậy khi thấy Q chuẩn bị điều khiển xe ô tô đi thì L1 lên xe ô tô, biển số 86A-119.xx ngồi hàng ghế sau, T1 ngồi ghế trước bên phải để theo can ngăn. Sau đó Q điều khiển xe chạy theo đường Quốc lộ 1A ra hướng Trạm thu phí Sông P. Đối với Nguyễn Đức S, ngay sau khi thách đố đánh nhau với Nguyễn Tấn Q, thì S đi ra nhà sau lấy 01 con dao dài 30cm, cán màu đen dài 12cm, lưỡi bằng kim loại màu đen 02 cạnh sắc, dài 18cm, mũi nhọn, có vỏ bọc bằng da đút vào túi quần trước bên phải rồi điều khiển xe mô tô, biển số 86B2.595.xx chạy theo đường Quốc lộ 1A đến nơi hẹn đánh nhau với Q. Lúc 0 giờ 45 phút, ngày 21/8/2023, khi Q điều khiển xe ô tô chạy theo Quốc lộ A, hướng H ra, khi còn cách Trạm thu phí Sông Phan khoảng 250m trông thấy S điều khiển xe mô tô chạy ngược chiều đến, Q giảm tốc độ để dừng xe trên đường Q thì bất ngờ bị S cúp đầu xe, tung vào phần đầu bên phải xe ô tô để chặn xe của Q lại, sau đó S xuống xe chạy vòng qua đầu xe ô tô đến cửa xe ô tô bên trái nơi Q ngồi lái vừa lúc Q mở cửa xe ô tô bên trái ra, S liền rút dao chuẩn bị sẵn nhào tới đâm nhiều nhát về phía Q thì Q tránh né ngã người qua phía ghế phụ bên phải, dùng hai chân đạp chống đỡ liền bị S đâm trúng một nhát vào mặt trước ngoài 1/3 giữa xương cẳng chân trái và một nhát vào đầu trên mặt trong cẳng chân trái. Thấy Q bị đâm, L1 mở cửa sau xe bên phải chạy vòng ra phía trước sang bên trái xe ôm S lại kéo qua bên kia đường can ngăn rồi quay lại xe thấy Nguyễn Tấn Q bị thương ở chân trái, chảy nhiều máu không thể tiếp tục điều khiển xe được và Q nhờ L1 điều khiển xe ô tô chở Q đi cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa tỉnh B nhưng Q đã tử vong trên đường đi.

Sau khi đâm Nguyễn Tấn Q tử vong, đến 15 giờ 00 cùng ngày, Nguyễn Đức S đến Công an huyện H đầu thú và đưa Cơ quan điều tra đi thu giữ con dao là hung khí gây án.

Tại biên bản khám nghiệm hiện trường do Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an tỉnh B lập lúc 10 giờ 30 phút ngày 21/8/2023, tại thôn M, xã H, huyện H: Hiện trường là khu vực mặt đường thuộc đoạn mở dải phân cách trên QL1A thuộc thôn M, xã H, huyện H, có các hướng tiếp giáp sau:

Hướng Bắc: là đường Q, tại km22, theo hướng xã H đi thị trấn T. Hướng Nam: giáp Nhà máy X và đường Bê tông rộng 3,6m. Hướng Đ: đi xã H, cách Trạm thu phí Sông P 250m.

Hướng T2: đi thị trấn T. Khoảng mở dải phân cách được trải nhựa bằng phẳng, dài 29,80m, rộng 14m90. Hai bên khoảng mở dải phân cách có vạch sơn kẻ đường dành cho người đi bộ và dải phân cách bằng Bê tông chia Quốc lộ A thành 02 phần đường.

Quá trình khám nghiệm không phát hiện vật hay dấu vết có liên quan hay nghi có liên quan đến vụ án.

Kết luận giám định tử thi số: 187/KLGĐTT-TTPYBT ngày 28/9/2023 của Trung tâm pháp y tỉnh B, kết luận nguyên nhân chết của Nguyễn Tấn Q như sau:

1. Các kết quả chính:

- Kết quả khám nghiệm:

+ Vết thương mặt trước ngoài 1/3 giữa cẳng chân trái làm đứt cơ chày trước trái, mẻ 1/3 giữa xương chày trái, đứt động mạch chày, đứt động mạch mác trái. vết thương do vật sắc nhọn gây ra theo chiều hướng từ trước ra sau, từ dưới lên trên với lực tác động rất mạnh, Vết thương này gây tử vong cho nạn nhân.

+ Vết thương đầu trên mặt trong cẳng chân trái làm rách da cơ. Vết thương do vật sắc nhọn gây ra theo chiều hướng từ dưới lên trên với lực tác động ntrung bình.

- Kết quả xét nghiệm, giám định khác:

+ Xét nghiệm mô bệnh học: Đứt thủng da; Đứt thủng cơ; Đứt thủng động mạch; Đứt thủng tĩnh mạch.

+ Xét nghiệm nồng độ cồn (Ethanol) trong máu toàn phần:

200,59mg/100ml.

2. Kết luận nguyên nhân chết: Vết thương mặt trước ngoài 1/3 giữa cẳng chân trái làm đứt cơ chày trước trái, mẻ 1/3 giữa xương chày trái, đứt động mạch chày trái, đứt động mạch mác trái làm mất máu cấp gây suy tuần hoàn cấp dẫn đến tử vong.

Kết luận giám định số 5843/KL-KTHS ngày 03/10/2023 của Phân viện Khoa học hình sự tại thành phố Hồ Chí Minh, kết luận:

Trên con dao gửi giám định và các chất màu nâu đỏ được thu khi khám nghiệm phương tiện (xe ô tô, biển số 86A-119.xx) v ở các vị trí số 1, 2, 3 đều có máu người. Phân tích AND được cùng 01 kiểu gen nam giới, trùng với kiểu gen của tử thi Nguyễn Tấn Q. Vật chứng thu giữ: 01 con dao dài 30cm màu đen, cán dài 12cm, mũi bằng kim loại màu đen dài 18cm nhọn, 02 cạnh lưỡi dao sắc bén, trên thân lưỡi dao có dòng chữ RAMBO được chuyển đến Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bình Thuận theo biên bản giao, nhận đồ vật, tài liệu, vật chứng ngày 22/11/2023.

Về dân sự: Bà Mai Thị L là mẹ ruột bị hại Nguyễn Tấn Q đại diện theo ủy quyền gia đình bị hại yêu cầu bồi thường chi phí mai táng và các thiệt hại khác, tổng số tiền 158.485.000 đồng, tổn thất về tinh thần là 180.000.000 đồng. Tiền cấp dưỡng nuôi hai con 5.000.000 đồng/tháng cho 5 năm đầu, sau đó là 10.000.000 đồng/tháng cho đến khi con 18 tuổi.

Nguyễn Đức S đã tự nguyện bồi thường và đã giao nộp số tiền 100.000.000 triệu đồng(Một trăm triệu đồng) tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bình Thuận theo biên lai thu tiền số 0000003 ngày 22/11/2023.

Tại Bản cáo trạng số 48/CT-VKSBT-P2, ngày 21 tháng 11 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Thuận truy tố bị cáo Nguyễn Đức Sang về tội “Giết người” quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa:

- Kiểm sát viên giữ nguyên quyết định truy tố theo cáo trạng số 48/CT- VKSBT-P2, ngày 21 tháng 11 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Thuận và đề nghị Hội đồng xét xử: áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123, Điều 38, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Đức S từ 18 đến 20 năm tù. Ngoài ra, Kiểm sát viên đề nghị xem xét giải quyết về phần bồi thường dân sự, công nhận sự thỏa thuận về mức bồi thường thiệt và tổn thất về tinh thần giữa bị cáo và đại diện bị hại. Về cấp dưỡng nuôi con, buộc bị cáo phải có nghĩa vụ cấp dưỡng theo qui định của pháp luật. Về xử lý vật chứng, đề nghị tịch thu tiêu hủy con dao mà bị cáo dùng để gây án. Về vấn đề bị cáo khai rằng bị hại có lỗi vì xúc phạm, chửi bị cáo là không có căn cứ, bởi lẽ, mâu thuẫn giữa bị cáo và bị hại đã được can ngăn, không có chứng cứ nào xác định bị hại đã chửi bị cáo.

- Ý kiến của người bào chữa cho bị cáo: Về tội danh, thống nhất với tội danh mà Viện Kiểm sát tỉnh Bình Thuận truy tố bị cáo. Tuy nhiên đề nghị HĐXX cần xem xét thêm tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo như bị hại cũng có lỗi vì xúc phạm, chửi bị cáo theo điểm b, r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

- Ý kiến bị cáo thống nhất với phần bào chữa của luật sư và không bổ sung gì thêm.

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người đại diện hợp pháp của bị hại thống nhất với cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát. Về quan điểm của bị cáo cho rằng bị hại có lỗi vì xúc phạm, chửi bị cáo là không có căn cứ vì không có chứng cứ nào chứng minh. Phía bị hại yêu cầu xử lý nghiêm đối với bị cáo, đúng pháp luật. Về dân sự, bị cáo và đại diện bị hại đã thỏa thuận bồi thường thiệt hại và tổn thất về tinh thần, riêng phần cấp dưỡng đề nghị HĐXX xem xét theo qui định của pháp luật.

- Đại diện cho bị hại trình bày: bị hại không có lỗi gì với bị cáo, đề nghị xét xử bị cáo theo quy định của pháp luật. Về vấn đề cấp dưỡng đề nghị xem xét theo qui định.

Bị cáo nói lời sau cùng xin lỗi gia đình bị hại và xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử: Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng quy định về thẩm quyền, trình tự thủ tục của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, đại diện bị hại và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến, khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thể hiện tại hồ sơ là hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Đức S khai nhận hành vi phạm tội của mình đúng như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Thuận truy tố; lời nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, với người làm chứng, Biên bản khám nghiệm hiện trường, Kết luận giám định tử thi, Kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và phù hợp với lời khai của những người tham gia tố tụng khác, đủ cơ sở kết luận:

[2.1] Khoảng 23 giờ 00, ngày 20/8/2023, bà Trương Thị Hoàng T, là vợ chưa kết hôn của bị cáo Nguyên Đức S1, bị say rượu bia tại tiệc sinh nhật của Trần Minh H2 tại quán A1, thuộc thôn P, xã H, huyện H, tỉnh Bình Thuận nên bị cáo Nguyễn Đức S nhờ ông Nguyễn Tấn Q điều khiển xe ô tô chở về giùm nhưng Q không đồng ý, dẫn đến S và Q to tiếng với nhau thì được mọi người can ngăn. Sau đó qua điện thoại di động, giữa bị cáo S và Q thách đố đánh nhau tại Nhà máy X lúa, gần Trạm thu phí S2 - Quốc lộ A, thuộc thôn M, xã H, huyện H, tỉnh Bình Thuận. Nguyễn Đức S chuẩn bị 01 con dao dài 30cm màu đen, cán dài 12cm, mũi bằng kim loại màu đen dài 18cm nhọn, 02 cạnh lưỡi dao sắc bén, trên thân lưỡi dao có dòng chữ RAMBO rồi điều khiển xe mô tô đến điểm hẹn gặp Nguyễn Tấn Q điều khiển xe ô tô cũng vừa đến nơi. Khi Q vừa mở cửa xe ô tô, lập tức S xông tới dùng dao đâm Q trúng vào trước cẳng chân trái 02 nhát. Bị hại Q đã tử vong ngay trên đường đi đến bệnh viện cấp cứu.

[2.2] Theo kết luận giám định tử thi số 187/KLGĐTT-TTPYBT ngày 28/9/2023 của Trung tâm pháp y tỉnh B xác định: Vết thương thứ nhất: mặt trước ngoài 1/3 giữa cẳng chân trái làm đứt cơ chày trước trái, mẻ 1/3 giữa xương chày trái, đứt động mạch chày, đứt động mạch mác trái. vết thương do vật sắc nhọn gây ra theo chiều hướng từ trước ra sau, từ dưới lên trên với lực tác động rất mạnh, Vết thương này gây tử vong cho nạn nhân. Vết thương thứ 2 : đầu trên mặt trong cẳng chân trái làm rách da cơ. Vết thương do vật sắc nhọn gây ra theo chiều hướng từ dưới lên trên với lực tác động trung bình. Như vậy nguyên nhân gây ra cái chết của bị hại Nguyễn Tấn Q là do hành vi của bị cáo Nguyễn Đức S dùng dao sắt, nhọn đâm trúng vào trước cẳng chân trái 02 nhát làm mất máu cấp gây suy tuần hoàn cấp dẫn đến tử vong.

[2.3] Hành vi trên của bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng, xâm phạm đến tính mạng của bị hại, đã đủ yếu cấu thành tội “Giết người” với tình tiết định khung “Có tính chất côn đồ” tại điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Thuận truy tố bị cáo Nguyễn Đức S là có căn cứ.

[3] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: bị cáo thành khẩn khai báo, tự nguyện đầu thú sau khi gây án. Tại biên lai số 0000003 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bình Thuận gia đình bị cáo S nộp 100.000.000 đồng thể hiện sự tự nguyện bồi thường một phần thiệt hại cho bị hại. HĐXX xem xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa bị cáo cho rằng lỗi có phần của bị hại do bị hại đánh, chửi và dọa giết bị cáo. Tuy nhiên lời khai này của bị cáo không có cơ sở chấp nhận. Bởi vì giữa bị cáo và bị hại chỉ mâu thuẫn nhỏ nhặt, có cải nhau nhưng đã được can ngăn, không có chứng cứ nào thể hiện bị hại dọa giết bị cáo. Đồng thời khám nghiệm tại hiện trường và người làm chứng đều không thấy bị hại có mang theo hung khí hay phương tiện nào.

[4] Xét tính chất mức độ phạm tội: Hành vi sử dụng hung khí nguy hiểm, tấn công quyết liệt người khác của bị cáo Nguyễn Đức S thể hiện tính hung hãn, côn đồ, đã trực tiếp tước đoạt trái phép tính mạng của ông Nguyễn Tấn Q, thể hiện sự xem thường pháp luật, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Đồng thời, hành vi của bị cáo đã gây đau thương, mất mát cho gia đình nạn nhân, nên cần phải xử lý nghiêm minh trước pháp luật nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa tội phạm chung. Tuy nhiên bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự do đó HĐXX thấy rằng việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo là đủ sức răn đe, giáo dục và phòng ngừa tội phạm chung.

[5] Về trách nhiệm dân sự: tại phiên tòa bà Mai Thị L là mẹ ruột bị hại Nguyễn Tấn Q và bị cáo S đã tự thỏa thuận bồi thường chi phí mai táng và các chi phí khác với số tiền 158.485.000 đồng, tổn thất về tinh thần là 180.000.000 đồng. Đây là thỏa thuận tự nguyện nên được HĐXX ghi nhận. Về cấp dưỡng cho hai con của bị hại Nguyễn Tấn Q , theo chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, bị hại Nguyễn tấn Q2 có hai con là Nguyễn Minh H3, sinh ngày 19/02/2020 và Nguyễn Minh Q3, sinh ngày 18/10/2016. Đại diện hợp pháp của bị hại yêu cầu 5 năm đầu với mức 2.500.000 đồng/tháng cho mỗi con, sau 5 năm, tăng lên 5.000.000 đồng/tháng cho mỗi con. Bị cáo cho rằng mức yêu cầu cấp dưỡng này là quá cao nên không đồng ý. HĐXX xét thấy yêu cầu cấp dưỡng mức 2.500.000 đồng/tháng cho mỗi con là phù hợp, có lợi cho bị cáo nên được chấp nhận. Về việc sau 5 năm tăng lên 5.000.000 đồng/tháng cho mỗi con thì HĐXX thấy rằng trong quá trình thực hiện việc cấp dưỡng nuôi con của đại diện bị hại nếu thấy mức cấp dưỡng không còn phù hợp thì giữa các bên có quyền thỏa thuận lại mức cấp dưỡng. Nếu không thỏa thuận được thì đề nghị Tòa án giải quyết trong vụ án dân sự khác.

[6] ] Về xử lý vật chứng: 01 con dao dài 30cm màu đen, cán dài 12cm, mũi bằng kim loại màu đen dài 18cm nhọn, 02 cạnh lưỡi dao sắc bén, trên thân lưỡi dao có dòng chữ RAMBO được chuyển đến Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bình Thuận theo biên bản giao, nhận đồ vật, tài liệu, vật chứng ngày 22/11/2023. Đây là công cụ phạm tội và hiện không còn giá trị nên tịch thu tiêu hủy.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ: điểm n khoản 1 Điều 123, Điều 38, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

- Tuyên bố: bị cáo Nguyễn Đức S phạm tội “Giết người”.

- Xử phạt: bị cáo Nguyễn Đức S 18 năm tù (mười tám năm tù). Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 21/8/2023.

2. Về phần dân sự: Áp dụng khoản 1, khoản 2 Điều 591, Điều 593 Bộ luật dân sự:

- Công nhận sự tự thỏa thuận giữa bị cáo Nguyễn Đức S và đại diện bị hại: bị cáo S phải bồi thường thiệt hại cho đại diện hợp pháp của bị hại do bà Mai Thị L đại diện số tiền bồi thường chi phí mai táng và các chi phí khác là 158.485.000 đồng, tổn thất về tinh thần là 180.000.000 đồng. Tổng cộng là 338.485.000 đồng được khấu trừ vào số tiền 100.000.000 đồng bị cáo đã nộp tại biên lai thu tiền số 0000003 ngày 22/11/2023 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bình Thuận.

Tiếp tục tạm giữ số tiền 100.000.000 đồng theo biên lai thu tiền số 0000003, ngày 22/11/2023 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bình Thuận để đảm bảo thi hành án.

- Về cấp dưỡng nuôi con: bị cáo Nguyễn Đức S có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi hai con của bị hại là Nguyễn Minh H3, sinh ngày 19/02/2020 và Nguyễn Minh Q3, sinh ngày 18/10/2016 với mức 2.500.000 đồng/tháng cho mỗi con cho đến khi đủ mười tám tuổi, trừ trường hợp người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi đã tham gia lao động và có thu nhập đủ nuôi sống bản thân.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Trường hợp bản án được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7,7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tuyên tịch thu tiêu hủy: 01 con dao dài 30cm màu đen, cán dài 12cm, mũi bằng kim loại màu đen dài 18cm nhọn, 02 cạnh lưỡi dao sắc bén, trên thân lưỡi dao có dòng chữ RAMBO.

(Theo biên bản giao, nhận đồ vật, tài liệu, vật chứng ngày 22/11/2023 Cục thi hành án dân sự tỉnh Bình Thuận).

4. Về án phí: Căn cứ vào Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23, Điều 26, Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Nguyễn Đức S phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 11.924.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm, 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm về cấp dưỡng theo định kì.

Quyền kháng cáo bản án của bị cáo, đại diện hợp pháp của bị hại bà Mai Thị L là 15 ngày tròn kể từ ngày tuyên án (24-01-2024).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

40
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội giết người số 04/2024/HS-ST

Số hiệu:04/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: đang cập nhật
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;