Bản án về ly hôn số 27/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THÁI THỤY, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 27/2022/HNGĐ-ST NGÀY 23/05/2022 VỀ LY HÔN

Ngày 23 tháng 05 năm 2022, tại phòng xét xử Tòa án nhân dân huyện Thái Thụy xét xử sơ thẩm, công khai vụ án thụ lý số 275/2021/TLST- HNGĐ ngày 21 tháng 12 năm 2021 về Tranh chấp Hôn nhân gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 15/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 22 tháng 03 năm 2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị L1, sinh năm 1990; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Tổ Dân phố B1, thị trấn D1, huyện T1, tỉnh Thái Bình; Nơi cư trú: Xóm xxx, thôn Đ1, xã T2, huyện T1, tỉnh Thái Bình. Có mặt.

Bị đơn: Anh H1, sinh năm 1985; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú, nơi cư trú: Tổ Dân phố B1, thị trấn D1, huyện T1, tỉnh Thái Bình; Vắng mặt- lần thứ hai.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 28- 11- 2021, bản tự khai, trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn là chị L1 trình bày: Chị và anh H1 tự nguyện đăng ký kết hôn; đã được Ủy ban nhân dân xã T3 (nay là thị trấn D1) cấp giấy chứng nhận kết hôn số 27 ngày 12 tháng 07 năm 2013. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống tại gia đình chồng. Tháng 09- 2021, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do tính tình không hợp. Do vợ chồng mâu thuẫn nên từ ngày 11- 10- 2021, chị đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ chị ở xóm xxx, thôn Đ1, xã T2 làm ăn, sinh sống rồi viết đơn ly hôn. Sau khi Tòa án thụ lý vụ án, do dịch bệnh COVID nên chị trở về chăm sóc các con 15 ngày; khi đó, vợ chồng tiếp tục mâu thuẫn nên sau đó, chị lại trở về xã T2 sinh sống. Vợ chồng không sống chung với nhau, không còn thương yêu nhau, cũng không quan tâm chăm sóc nhau nữa. Chị xác định: Vợ chồng đã vi phạm nghiêm trọng quyền nghĩa vụ vợ chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị có nguyện vọng ly hôn. Hiện nay, chị không mang thai. Vợ chồng có hai con chung là H2, sinh ngày 21 tháng 11 năm 2015; D2, sinh ngày 22 tháng 01 năm 2020. Hiện nay, chị làm công nhân, thu nhập 5.000.000đồng/tháng. Chị có nguyện vọng trực tiếp nuôi dưỡng con chung D2; chị đồng ý để anh H1 trực tiếp nuôi dưỡng con chung H2. Khi đó, không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau. Về tài sản chung: Vợ chồng không có tài sản chung, không có nợ chung, không có ai nợ vợ chồng nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ý kiến của chị về lời khai thu nhập của anh H2: Chị công nhận anh H1 làm nghề lái máy xúc nhưng chị không công nhận mức thu nhập 10.000.000đồng/tháng do anh trình bày.

Tại bản tự khai ngày 25- 01- 2022 và trong quá trình giải quyết, bị đơn là anh H1 trình bày: Anh và chị L1 tự nguyện đăng ký kết hôn; đã được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 27 ngày 12 tháng 07 năm 2013. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống tại gia đình anh, vợ chồng và con chung đều có hộ khẩu tại thị trấn D1, anh là chủ hộ, chị và con chung là thành viên. Khoảng tháng 10- 2021, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng cãi nhau, không ai nhường ai. Do vợ chồng mâu thuẫn nên từ tháng 11- 2021, chị L1 đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ chị ở xã T2 làm ăn và sinh sống. Từ đó, vợ chồng không sống chung với nhau, không còn quan tâm nhau nữa; khi hòa giải anh đồng ý ly hôn. Vợ chồng có hai con chung là H2, sinh ngày 21 tháng 11 năm 2015; D2, sinh ngày 22 tháng 01 năm 2020. Anh làm nghề lái máy xúc, thu nhập 10.000.000đồng/tháng; ngày làm việc 8 tiếng; bố mẹ anh đồng ý cho anh và các con sinh sống cùng. Vì vậy, anh có nguyện vọng trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung; không yêu cầu chị L1 cấp dưỡng nuôi con chung. Về tài sản chung: Vợ chồng không có tài sản chung, không có nợ chung, không có ai nợ vợ chồng nên anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Khi Tòa án tiến hành hòa giải, chị L1, anh H1 thuận tình ly hôn nhưng không thỏa thuận được việc nuôi dưỡng con chung nên hòa giải không thành; vụ án phải đưa ra xét xử.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Mặc dù đã được triệu tập hợp lệ nhưng tại phiên tòa lần thứ nhất, lần thứ hai bị đơn đều vắng mặt. Căn cứ quy định tại khoản 1, Điểm b khoản 2 Điều 227; Khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục chung.

[2]. Về quan hệ hôn nhân: Việc kết hôn giữa chị L1 và anh H1 là tự nguyện và hợp pháp. Do vợ chồng phát sinh mâu thuẫn nên từ tháng 10- 2021, chị L1 bỏ về nhà bố mẹ đẻ chị làm ăn và sinh sống. Sau khi Tòa án thụ lý vụ án, tháng 02- 2022, khi chị trở về chăm sóc hai con bị COVID- 19 trong thời gian 15 ngày; vợ chồng lại mâu thuẫn nên từ đó chị không trở về chung sống cùng anh nữa. Trong quá trình giải quyết vụ án, khi Tòa án hòa giải thì chị L1, anh H1 thuận tình ly hôn. Tại phiên tòa, chị L1 kiên quyết ly hôn; còn anh H1 vắng mặt nên không có ý kiến trình bày. Như vậy, có căn cứ xác định vợ chồng chị L1, anh H1 đã vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ vợ chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, cần áp dụng khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình xử cho chị L1 ly hôn anh H1.

[3].Về con chung: Vợ chồng chị L1, anh H1 có hai con chung là H2, sinh ngày 21 tháng 11 năm 2015; D2, sinh ngày 22 tháng 01 năm 2020. Anh H1 trình bày: Anh làm nghề lái máy xúc, thu nhập 10.000.000đồng/tháng; ngày làm việc 8 tiếng; được bố mẹ anh đồng ý cho anh và các con sinh sống cùng. Vì vậy, anh có nguyện vọng trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung; không yêu cầu chị L1 cấp dưỡng nuôi con chung. Anh H1 đã được Tòa án yêu cầu trình bày và giao nộp tài liệu chứng cứ về thu nhập, về thời gian làm việc, về điều kiện chỗ ở; đã được Tòa án giải thích nghĩa vụ chứng minh của đương sự nhưng anh không trình bày, không giao nộp tài liệu chứng cứ cho Tòa án. Chị L1 có nguyện vọng trực tiếp nuôi dưỡng con chung D2; chị đồng ý để anh H1 trực tiếp nuôi dưỡng con chung H2; hai bên không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung. Do con chung D2, sinh ngày 22 tháng 01 năm 2020 nên tính đến ngày xét xử dưới 36 tháng tuổi nên cần giao cho chị L1 trực tiếp nuôi dưỡng theo quy định tại khoản 3 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình; giao cho anh H1 trực tiếp nuôi dưỡng con chung H2, sinh ngày 21 tháng 11 năm 2015; hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau.

[4]. Về tài sản chung: Nguyên đơn, bị đơn đều không yêu cầu nên không đặt ra án giải quyết.

[5]. Về án phí: Nguyên đơn là chị L1 phải chịu 300.000,đồng án phí ly hôn sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Điều 227; Điều 228; Khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự. Khoản 1 Điều 51; Khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình.

Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị L1 ly hôn anh H1.

2. Về con chung:

-Vợ chồng chị L1, anh H1 có hai con chung là H2, sinh ngày 21 tháng 11 năm 2015; D2, sinh ngày 22 tháng 01 năm 2020.

-Xử giao con chung H2, sinh ngày 21 tháng 11 năm 2015 cho anh H1 trực tiếp nuôi dưỡng; xử giao con chung D2, sinh ngày 22 tháng 01 năm 2020 cho chị L1 trực tiếp nuôi dưỡng. Hai bên không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau.

-Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung: Nguyên đơn, bị đơn đều không yêu cầu nên không đặt ra giải quyết.

4. Về án phí: Chị L1 phải nộp toàn bộ 300.000,đồng án phí ly hôn; được trừ vào số tiền 300.000,đồng tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai số 0004029 ngày 21 tháng 12 năm 2021 của Chi cục Thi hành án huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình. Chị L1 đã nộp đủ án phí.

5.Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có mặt, có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt, có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

122
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn số 27/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:27/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thái Thụy - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;