Bản án 04/2019/HSST ngày 23/01/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN V, TỈNH YÊN BÁI

BẢN ÁN 04/2019/HSST NGÀY 23/01/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 01 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Yên Bái. Xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 03/2018/TLST-HS ngày 17 tháng 12 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 04/2018/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 01 năm 2019 đối với bị cáo:

1, Họ và tên: Ngân Văn B, tên gọi khác: Không; sinh ngày 25 tháng 02 năm 1982 tại huyện V, tỉnh Yên Bái; nơi cư trú: Thôn Minh Nội, xã G, huyện V, tỉnh Yên Bái; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: Lớp 7/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Ngân Văn L, sinh năm 1952 và bà: Lò Thị Ph, sinh năm 1952; bị cáo có vợ là Lò Thị T, sinh năm 1980 và có 02 con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 11-10-2018, “Có mặt”.

2, Người bào chữa cho bị cáo Ngân Văn B: Bà Nguyễn Thị Hoa -Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Yên Bái. “Vắng mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hi 08 giờ ngày 11/10/2018, Công an huyện V triệu tập Ngân Văn B đến Công an xã G, huyện V để xét nghiệm chất ma túy. Tiến hành kiểm tra người B phát hiện, thu giữ trong túi quần bên phải B đang mặc có một chiếc ví giả da màu nâu, bên trong có 01 vỏ gói thuốc lào Tuấn Vũ gói 11 (mười một) gói giấy màu trắng có dòng kẻ, bên trong các gói giấy đều có chất bột nén màu trắng nghi là Heroine.

Ngân Văn B khai nhận 11 (mười một) gói giấy màu trắng, có chất bột nén màu trắng là Heroine, B tàng trữ để sử dụng.

Tại bản Kết luận giám định số 177/GĐMT ngày 18/10/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Yên Bái kết luận: Chất bột nén màu trắng thu giữ khi bắt quả tang Ngân Văn B có tổng khối lượng là 0,25 gam (không phẩy hai mươi lăm gam); 0,08 gam trích từ 0,25 gam chất bột nén màu trắng gửi giám định là ma túy; loại Heroine.

Tại phiên tòa trong phần tranh luận, sau khi phân tích, đánh giá các chứng cứ, vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện V giữ nguyên quan điểm như Cáo trạng đã truy tố; đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố bị cáo Ngân Văn B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Về trách nhiệm hình sự: Đề nghị xử lý:

+ Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Ngân Văn B từ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng đến 02 (hai) năm tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

- Về vật chứng của vụ án: Áp dụng khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015; các khoản 2, 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, để xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

-Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Người bào chữa Nguyễn Thị Hoa vắng mặt có gửi bản luận cứ bào chữa nội dung: Bị cáo Ngân Văn B là người dân tộc thiểu số, trình độ nhận thức còn rất hạn chế, sau khi phạm tội đã thành khẩn khai báo; bị cáo có bố đẻ là ông Ngân Văn L được Nhà nước tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng nhất, gia đình thuộc hộ nghèo. Nhất trí với tội danh mà đại diện Viện kiểm sát đã truy tố các bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 xử bị cáo 01 (một) năm tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Bị cáo nhất trí luận cứ bào chữa không bổ sung gì thêm.

Bị cáo Ngân Văn B nói lời sau cùng: bị cáo có tội, xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên Công an huyện V, tỉnh Yên Bái, Viện kiểm sát nhân dân huyện V, tỉnh Yên Bái, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Qúa trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo B không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai tại phiên toà của bị cáo phù hợp với lời khai tại Cơ quan Điều tra, phù hợp với lời khai của người chứng kiến, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng đã thu giữ và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Vì vậy, đã có đủ cơ sở kết luận:

Hi 08 giờ ngày 11/10/2018, tại Công an xã G, huyện V. Công an huyện V tiến hành xét nghiệm chất ma túy đối với Ngân Văn B, kiểm tra trên người B thu giữ 0,25 gam Heroine, B tàng trữ mục đích để sử dụng.

Bị cáo Ngân Văn B là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết rõ việc tàng trữ trái phép chất ma túy đã xâm phạm trực tiếp đến chế độ quản lý của Nhà nước về chất ma túy, lượng ma túy tàng trữ đã đủ để truy cứu trách nhiệm hình sự. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Do đó Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện V và luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa truy tố đối với Ngân Văn B là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3]. Về tính chất mức độ phạm tội: Hành vi của bị cáo gây nguy hiểm lớn cho xã hội, cần phải đưa ra xử lý nghiêm minh trước pháp luật.

[4]. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận đầy đủ, rõ ràng về hành vi phạm tội, là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: “Thành khẩn khai báo” bị cáo có bố đẻ là người được Nhà nước tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng nhất là các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, cần xem xét giảm nhẹ cho bị cáo.

[5]. Về nhân thân: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự gì tuy nhiên bị cáo khai nhận là người nghiện ma túy. Cần xác định bị cáo là người có nhân thân xấu.

[6]. Từ những đánh giá về tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo như đã phân tích ở trên, cần áp dụng hình phạt tù, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định, mới đủ điều kiện giáo dục riêng và răn đe phòng ngừa chung.

[7]. Tại phiên tòa và biên bản xác minh tài sản nơi bị cáo cư trú của cơ quan Điều tra ngày 25/10/2018 cho thấy: Bị cáo gia đình thuộc diện hộ nghèo không có tài sản lớn, bị cáo không có tài sản riêng, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[8]. Về vật chứng và tài sản tạm giữ:

- Cơ quan điều tra thu giữ của Ngân Văn B 01 ví giả da màu nâu; 01 chứng minh thư nhân dân số 060821717 mang tên Ngân Văn B; Tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 800.000 đồng (tám trăm ngàn đồng); 01 điện thoại di động nhãn hiệu FPT bàn phím nổi màu xanh, là tài sản không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo. 01 (một) phong bì thư niêm phong vật chứng là 0,17 gam Heroine; 02 (hai) vỏ phong bì đã mở niêm phong và giấy gói; 01 vỏ gói thuốc lào Tuấn Vũ màu vàng xanh; 01 mảnh giấy màu trắng nhũ vàng; những vật này đến nay không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

[9]. Bị cáo khai đã mua ma túy của người đàn ông người dân tộc Mông tại cầu bản C, xã T, huyện V. Cơ quan điều tra không xác minh được nên không có căn cứ để xử lý trong vụ án này.

[10]. Về án phí: Bị cáo Ngân Văn B phải chịu án phí hình sự sơ thẩm, có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1, Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Ngân Văn B, phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2, Về hình phạt:

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Ngân Văn B 01 (một) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam là ngày 11-10-2018.

3, Về xử lý vật chứng và tài sản tạm giữ: Áp dụng khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015; các điểm a và c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015.

- Tịch thu tiêu hủy: 0,17 gam Heroine để trong 01 (một) phong bì thư đã niêm phong; 02 (hai) vỏ phong bì đã mở niêm phong và giấy gói; 01 vỏ gói thuốc lào Tuấn Vũ màu vàng xanh; 01 mảnh giấy màu trắng nhũ vàng.

- Trả lại cho Ngân Văn B 01 ví giả da màu nâu; 01 chứng minh thư nhân dân số 060821717 mang tên Ngân Văn B; Tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 800.000 đồng (tám trăm ngàn đồng); 01 điện thoại di động nhãn hiệu FPT bàn phím nổi màu xanh.

- Các vật chứng, tài sản nêu trên có đặc điểm như trong biên bản giao nhận vật chứng ngày 18 tháng 12 năm 2018 giữa Cơ quan điều tra và Chi cục Thi hành án dân sự huyện V.

4,Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; các điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14: Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, bị cáo Ngân Văn B phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5, Về quyền kháng cáo đối với Bản án: Áp dụng Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Bị cáo Ngân Văn B có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án 23-01-2019.

Trường hợp Bản án, Quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

195
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 04/2019/HSST ngày 23/01/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:04/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Văn Chấn - Yên Bái
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;